Hoạt động khoa học và công nghệ cùng hoạt động đào tạo là nhiệm vụ chính của cơ sở giáo dục đại học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, góp phần thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế – xã hội của đất nước.
Tại Hội thảo khoa học tổng kết 10 năm (2013-2023) thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nội dung về khoa học, công nghệ và hợp tác quốc tế do Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) tổ chức hồi cuối tháng 10, ông Trịnh Xuân Hiếu – Vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Bộ GDĐT cho biết: 10 năm qua, hành lang pháp lý cũng như một số chính sách cụ thể đã được ban hành nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học, góp phần thực hiện mục tiêu chung về phát triển giáo dục đại học đã được nêu trong Nghị quyết.
Với quan điểm xuyên suốt nguồn lực con người là quan trọng nhất, đội ngũ nhân lực khoa học, công nghệ của nước ta đã phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, trong giai đoạn 2015-2019, số lượng nhân lực nghiên cứu và phát triển của Việt Nam tăng mạnh, từ 167.746 lên 185.436 người, tỷ lệ tăng đạt 10,5%. Trong đó, số lượng nhân lực nghiên cứu và phát triển hoạt động trong các cơ sở giáo dục đại học tăng từ 77.841 người (năm 2015) lên 96.400 người (năm 2019).
Tiềm lực khoa học, công nghệ của các cơ sở giáo dục đại học được thể hiện thông qua số lượng và chất lượng, cũng như loại hình các tổ chức khoa học, công nghệ. Tính đến năm 2021, cả nước đã hình thành được 47 cơ sở ươm tạo công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ cao và cơ sở ươm tạo khác, 43 vườn ươm, trung tâm, câu lạc bộ hỗ trợ khởi nghiệp, 636 doanh nghiệp khoa học, công nghệ được thành lập trong các cơ sở giáo dục đại học trên cả nước.
Nhân lực nghiên cứu trong trường đại học chiếm 50% cả nước
Theo số liệu thống kê, ngân sách nhà nước về nghiên cứu khoa học cho các trường lại thấp nhất. Năm 2019, giáo dục đại học nhận được khoảng 16% ngân sách này, trong khi con số tương ứng cho các viện hoặc cơ quan nghiên cứu cấp quốc gia là 44%.
Đảng và Nhà nước luôn chú trọng đầu tư cho khoa học công nghệ. Trong bối cảnh cân đối chi ngân sách nhà nước còn khó khăn, chi thường xuyên cho hoạt động khoa học công nghệ trong giai đoạn 2021-2023 đạt trung bình 0,64% tổng chi ngân sách nhà nước.
Hiện nay nhân lực nghiên cứu và phát triển trong các cơ sở giáo dục đại học chiếm khoảng 50% so với cả nước, chất lượng nguồn nhân lực cũng được đánh giá có trình độ cao hơn so với các khu vực khác, số lượng các sản phẩm khoa học, công nghệ của các cơ sở giáo dục đại học đóng góp cho tiềm lực khoa học, công nghệ quốc gia tương đối lớn.
Mặc dù kinh phí được đầu tư cho nghiên cứu hàng năm rất hạn chế và có xu hướng giảm, nhưng với tiềm lực, năng lực và động lực tự nghiên cứu, số lượng và chất lượng các công bố trên các tạp chí trong và ngoài nước đều tăng mạnh, đặc biệt đã có sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng của các công bố theo chất lượng của các tạp chí.
Năm 2021, các cơ sở giáo dục đại học chiếm tới 95,78% số lượng công bố quốc tế trên Scopus, tương ứng với 17.625 công bố, góp phần đưa xếp hạng của Việt Nam đứng thứ 5 trong khu vực ASEAN, đứng thứ 12 Châu Á và thứ 45 trên thế giới về số lượng công bố quốc tế trên Scopus. Năm 2022 trong số 10 tổ chức có số lượng công bố trên Scopus cao nhất Việt Nam thì có tới 9 cơ sở giáo dục đại học.
Những năm đầu thực hiện Nghị quyết số 29, các cơ sở giáo dục đại học hầu như vắng bóng trên các bảng xếp hạng uy tín quốc tế thì theo kết quả xếp hạng các quốc gia về lĩnh vực giáo dục năm 2021 của USNEWS, Việt Nam xếp thứ 59, tăng 5 bậc so với năm 2020. Năm 2022, Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam xếp thứ 48/132 quốc gia và vùng lãnh thổ được xếp hạng.
Từ kết quả đạt được sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 29 về khoa học và công nghệ, cũng như như những hạn chế, khó khăn đặt ra, đại diện các cơ sở giáo dục đại học, nhà khoa học đã có những trao đổi về định hướng trong giai đoạn tiếp theo. Trong đó, nhấn mạnh tới việc cần tăng cường nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu khoa học theo hướng có trọng tâm, trọng điểm; tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật tạo thuận lợi cho nghiên cứu khoa học; thúc đẩy hợp tác liên kết giữa các cơ sở giáo dục đại học, giữa cơ sở đại học với các viện nghiên cứu; hình thành những trung tâm nghiên cứu mạnh; quan tâm và tập trung cho đào tạo nhân tài,…
Cũng tại hội thảo này, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Phúc chia sẻ, trong điều kiện đất nước còn khó khăn, đầu tư nguồn lực cho khoa học, công nghệ, hợp tác quốc tế có hạn, song so với cách đây 10 năm hoạt động khoa học, công nghệ và hợp tác quốc tế đã có sự thay đổi lớn. Những kết quả này là sự khích lệ, là niềm tin để trong tương lai, nếu có nguồn lực đầu tư lớn hơn, cơ chế tốt hơn, các kết quả thu được sẽ tốt hơn.
Đỗ Phương
Đường dẫn bài viết: https://tudonghoangaynay.vn/ngan-sach-cho-hoat-dong-khcn-cua-cac-co-so-giao-duc-dai-hoc-chiem-ty-le-rat-nho-304.htmlIn bài viết
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2024 https://tudonghoangaynay.vn/ All right reserved.