e magazine
Đâu là cơ hội để doanh nghiệp khoa học công nghệ có thể bứt phá?

Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ đã đề ra mục tiêu phát triển 3.000 doanh nghiệp khoa học và công nghệ (KH&CN) vào năm 2015, và 5.000 doanh nghiệp vào năm 2020. Ngay sau khi Luật KH&CN năm 2013 được ban hành, nhiều nghị định và thông tư hướng dẫn đã ra đời như Nghị định 95/2014/NĐ-CP, Nghị định 13/2019/NĐ-CP. Tuy nhiên, qua các giai đoạn tổng kết, kết quả vẫn chưa đạt con số như kỳ vọng.

TS. Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ KH&CN, người nhiều năm tâm huyết với chính sách phát triển KH&CN, chỉ ra nguyên nhân sâu xa và gợi mở các cơ hội để doanh nghiệp KH&CN có thể bứt phá trong bối cảnh mới.

Như ông đã biết, việc phát triển doanh nghiệp KH&CN trong thời gian qua chưa được như kỳ vọng. Theo ông, điểm nghẽn lâu nay nằm ở đâu?

TS. Nguyễn Quân: Doanh nghiệp KH&CN được Chính phủ quy định ngay từ năm 2007 bằng Nghị định số 80/2007/NĐ-CP, xác định rõ tiêu chí và ưu đãi cao nhất trong hệ thống pháp luật cho loại hình doanh nghiệp này. Đến năm 2012, Chiến lược phát triển KH&CN đến năm 2020 tiếp tục đặt mục tiêu đầy tham vọng, nhưng khi kết thúc giai đoạn, mục tiêu mà chúng ta đặt ra không đạt được.

Có ba nguyên nhân chính: Một là, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam quy mô nhỏ và siêu nhỏ. Dù có kết quả nghiên cứu, sáng chế, đủ điều kiện đăng ký, nhưng năng lực sản xuất thương mại hạn chế khiến ưu đãi về thuế, đất đai, quyền tự chủ trong kinh doanh,… gần như không có tác dụng lớn đối với doanh nghiệp.

Thứ hai, trong hệ thống luật pháp duy nhất chỉ có nghị định của Chính phủ, sau này là Luật KH&CN 2013 có thuật ngữ “doanh nghiệp KH&CN”. Những doanh nghiệp đạt được tiêu chí và được công nhận thì sẽ được hưởng ưu đãi. Nhưng trong các luật khác lại chưa có những quy định cụ thể cho doanh nghiệp KH&CN, ví dụ: Luật doanh nghiệp có phân loại các doanh nghiệp nhưng không có loại hình doanh nghiệp KH&CN và chúng ta cũng không sửa luật kịp thời. Trong các luật về thuế cũng không ghi rõ những ưu đãi về thuế và đất đai cho doanh nghiệp KH&CN. Bởi vậy thuật ngữ doanh nghiệp KH&CN không được quy định “chính danh” trong các đạo luật đó. Điều này dẫn đến nhiều doanh nghiệp mặc dù đã được cấp giấy chứng nhận là doanh nghiệp KH&CN rồi nhưng trên thực tế họ hầu như không được hưởng những chính sách ưu đãi đó.

Thứ ba, các doanh nghiệp KHCN bị ràng buộc chỉ được hưởng ưu đãi thuế đối với những năm nào doanh thu đạt được tỷ lệ nhất định về sản phẩm KH&CN. Ví dụ chúng ta quy định năm đầu tiên khi đăng ký doanh nghiệp KH&CN, doanh thu từ sản phẩm KH&CN phải đạt 30% tổng doanh thu, năm thứ 2 là 50%, năm thứ 3 phải từ 70% trở lên. Trên thực tế có rất nhiều doanh nghiệp quá trình sản xuất sản phẩm gặp rất nhiều khó khăn, có năm đạt được tỉ lệ doanh thu theo quy định, có năm không đạt được. Chính vì thế chính sách kém hấp dẫn để thúc đẩy doanh nghiệp đăng ký trở thành doanh nghiệp KHCN. Thêm vào đó là việc xét công nhận doanh nghiệp KHCN đang phân cấp cho các sở KH&CN, trong khi đội ngũ cán bộ đủ trình độ để thẩm định hồ sơ của các doanh nghiệp còn hạn chế. Điều này dẫn đến rất nhiều doanh nghiệp nộp hồ sơ nhưng phải chờ đợi hàng năm thậm chí nhiều năm vẫn không được thẩm định và cấp giấy chứng nhận, khiến người ta nản lòng.

Thực tế, số doanh nghiệp đủ điều kiện để được công nhận là doanh nghiệp KH&CN có thể lớn hơn nhiều so với con số thống kê, đặc biệt trong lĩnh vực phần mềm, nhưng họ không đăng ký hoặc không được cấp chứng nhận kịp thời.

Thưa ông, như vậy cơ bản vẫn là do bị ràng buộc bởi chính sách?

TS. Nguyễn Quân: Đúng vậy, muốn củng cố cộng đồng doanh nghiệp KH&CN chúng ta nên điều chỉnh lại cơ chế chính sách, bổ sung doanh nghiệp KH&CN vào Luật doanh nghiệp, Luật thuế, Luật đất đai. Đối với Luật Viên chức chúng ta cũng nên sửa đổi, mạnh dạn cho phép viên chức được thành lập và điều hành các doanh nghiệp KH&CN, thực chất là các doanh nghiệp khởi nguồn (spin-off) và khởi nghiệp (start-up) của các đơn vị sự nghiệp công lập. Hiện nay rất nhiều nhà khoa học có kết quả nghiên cứu tốt, có bằng sáng chế rất muốn thành lập doanh nghiệp để thương mại hóa kết quả nghiên cứu nhưng vì bị cấm nên họ lại đành “bỏ ngăn kéo”. Nếu tháo gỡ được vấn đề này sẽ xuất hiện nhiều doanh nghiệp KH&CN.

Các chính sách ưu đãi cũng phải điều chỉnh làm sao để các doanh nghiệp thấy đủ hấp dẫn, kể cả có những năm sản xuất kinh doanh không thuận lợi cũng có được những ưu đãi nhất định miễn là doanh nghiệp vẫn theo đuổi sản phẩm KH&CN. Ngay cả Luật đất đai hiện nay, các doanh nghiệp KH&CN gần như không được ưu đãi gì từ luật này. Mặc dù trong Nghị định của Chính phủ cho phép họ được hưởng mức thuê đất, hoặc là được giao đất ở thang thuế suất thấp nhất, nhưng trên thực tế gần như vẫn phải chịu những chế độ chung cho các loại hình doanh nghiệp nói chung.

Đấy là những nguyên nhân dẫn tới doanh nghiệp KH&CN của chúng ta không phát triển được như kỳ vọng, mặc dù trên thực tế có rất nhiều doanh nghiệp đạt được tiêu chí ấy và số lượng có thể rất là lớn trong xã hội.

Đâu là cơ hội để doanh nghiệp khoa học công nghệ có thể bứt phá?

Trong các tiêu chí để phát triển doanh nghiệp KHCN hiện nay gồm: Nghiên cứu và phát triển (R&D), ứng dụng và thương mại hóa công nghệ, đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao và hỗ trợ từ nhà nước, là người nhiều năm qun lý và theo dõi hoạt động KHCN của nước nhà, ông thấy tiêu chí nào là khó thực hiện nhất trong các tiêu chí trên?

TS. Nguyễn Quân: Tiêu chí khó nhất vẫn là doanh thu từ sản phẩm KH&CN. Mặc dù ban đầu đăng ký để được công nhận là doanh nghiệp KH&CN, cơ quan quản lý nhà nước chưa đề cập đến doanh thu nhưng khi được công nhận rồi làm sao duy trì được doanh thu từ sản phẩm KH&CN theo ngưỡng do Chính phủ quy định gồm: 30% năm đầu tiên, 50% năm thứ 2 và từ năm thứ 3 trở đi phải đạt 70%. Trong thời hạn để được hưởng ưu đãi chỉ có 4 năm miễn thuế, 9 năm giảm thuế, với doanh nghiệp mới thành lập, nếu kinh doanh trong 10 năm đầu tiên rất khó có lợi nhuận từ doanh thu của sản phẩm KH&CN.

Ông có thể nêu rõ, điều gì là đột phá từ Luật KH,CN và ĐMST vừa được Quốc hội thông qua vào đầu tháng 6/2025 để doanh nghiệp KHCN có thể thuận lợi phát triển?

TS. Nguyễn Quân: Luật KH,CN và Đổi mới sáng tạo mới được thông qua đã có nhiều quy định đột phá nhưng vẫn chỉ mang tính chất quy định chung ở tầm vĩ mô. Chúng ta chấp nhận đầu tư mạo hiểm, chấp nhận rủi ro trong hoạt động nghiên cứu, chấp nhận các viện, trường có thể thương mại hóa kết quả nghiên cứu thế nhưng vẫn chỉ là quy định chung của luật.

Vấn đề hiện nay những người làm trực tiếp mong muốn có những văn bản dưới luật quy định rất cụ thể. Ví dụ, câu hỏi đặt ra: Nhà nước có đầu tư vào Quỹ đầu tư mạo hiểm không, quy định cụ thể cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào Quỹ đầu tư mạo hiểm như thế nào, khả năng thoái vốn, chuyển lợi nhuận của các nhà đầu tư nước ngoài như thế nào, quyền lợi của nhà nước, của các nhà đầu tư, của doanh nghiệp khi thực hiện các dự án đầu tư mạo hiểm ra làm sao, nếu các dự án thất bại việc phân chia mức độ thiệt hại đó cho các bên liên quan như thế nào?;... Hoặc bây giờ luật cho phép chấp nhận rủi ro trong hoạt động nghiên cứu, có thể nghiên cứu thất bại nhưng đánh giá thất bại đấy như thế nào : là do nguyên nhân chủ quan, khách quan, có thể miễn trách nhiệm về mặt dân sự nhưng còn những trách nhiệm khác thì sao?;… Bên cạnh đó cũng cần có quy định đề tài nghiên cứu được nghiệm thu xuất sắc, nhưng nếu không thương mại hóa được hoặc thương mại hóa chậm thì trách nhiệm như thế nào?. Làm thế nào để đẩy nhanh quá trình thương mại hóa cũng cần có văn bản dưới luật hướng dẫn rất cụ thể mới có thể làm được.

Đâu là cơ hội để doanh nghiệp khoa học công nghệ có thể bứt phá?
TS. Nguyễn Quân cho rằng, trong thời đại công nghệ số, doanh nghiệp nào không chuyển đổi số, không ứng dụng KH&CN thì chắc chắn không tồn tại được.

Vậy đến thời điểm này, theo ông đâu là cơ hội để doanh nghiệp KHCN có thể bứt phá?

TS. Nguyễn Quân: Cơ hội hiện nay rất lớn bởi Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã có rất nhiều giải pháp mang tính đột phá cho KH&CN, kể cả Nghị quyết số 193/2025/QH15 của Quốc hội vừa rồi cũng đã cho phép các tổ chức KH&CN công lập có thể thành lập và vận hành các doanh nghiệp KH&CN. Vấn đề bây giờ chúng ta tổ chức thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội như thế nào để mang tính khả thi cao hơn. Nếu Luật Viên chức không sửa thì Nghị quyết 193/2025/QH15 vẫn bị hạn chế. Nghị quyết 193/2025/QH15 mới chỉ cho phép các viện, trường công lập được thành lập doanh nghiệp và viên chức được vận hành, điều hành các doanh nghiệp ấy, nhưng cá nhân các nhà khoa học vẫn không được giao quyền sở hữu và quyền định giá sản phẩm khoa học do chính họ tạo ra, mà các quyền ấy vẫn thuộc về đơn vị sự nghiệp công lập thì vẫn khó thương mại hóa kết quả nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, các chính sách ưu đãi phải có các văn bản rất cụ thể. Nghị quyết của Đảng rất đột phá nhưng vẫn chỉ mang tính định hướng. Ví dụ, để chấp nhận đầu tư mạo hiểm, thực hiện cơ chế quỹ, cho phép viên chức thành lập các doanh nghiệp khởi nghiệp vẫn cần các văn bản dưới luật mang tính cầm tay chỉ việc. Hiện nay các địa phương, các bộ ngành đều đang chờ đợi văn bản mang tính hướng dẫn cầm tay chỉ việc rất cụ thể nhưng chúng ta ban hành rất chậm.

Vì thế mà ý chí lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ rất cao, cơ hội rất lớn nhưng việc tổ chức thực hiện vẫn vướng mắc ở các cấp cơ sở. Nếu chúng ta không làm quyết liệt thì chắc chắn vẫn rất khó đưa những quy định mang tính đột phá vào trong cuộc sống.

Đâu là cơ hội để doanh nghiệp khoa học công nghệ có thể bứt phá?

Có thể nói chưa bao giờ, KH&CN nói chung và việc phát triển doanh nghiệp KH&CN có được hành lang pháp lý thuận lợi như hiện nay. Qua nhiều năm kinh nghiệm và thực tiễn, ông thấy để thực sự có được số lượng doanh nghiệp KH&CN như kỳ vọng, đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội thì những việc cụ thể cần làm trước mắt là gì?

TS. Nguyễn Quân: Chúng ta phải căn cứ vào những yếu tố là nguyên nhân cản trở việc hình thành hệ thống doanh nghiệp KH&CN trong thời gian qua. Do đó, việc cụ thể cần làm sớm là đồng bộ hóa các quy định mang tính đột phá để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với các ưu đãi của nhà nước, tích cực trong việc đăng ký để được công nhận là doanh nghiệp KH&CN.

Hiện nay chúng ta đã ban hành Luật KH,CN và Đổi mới sáng tạo 2025. Mới đây nhất, ngày 14/10/2025, Chính phủ đã có Nghị định số 268/2025/NĐ-CP, trong đó quy định rõ các điều kiện cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ Nhưng đây cũng chỉ là một việc, vấn đề là chúng ta phải có sự đồng bộ của các luật trong hệ thống luật pháp Việt Nam về doanh nghiệp KH&CN. Nếu chúng ta vẫn chỉ làm như hiện nay thì chắc chắn trong quá trình tổ chức thực hiện sẽ tiếp tục có những khó khăn, tái lặp lại những tình trạng như trước đây và chính sách khó đi vào cuộc sống một cách thuận lợi.

Trong thời đại công nghệ số, doanh nghiệp nào không chuyển đổi số, không ứng dụng KH&CN thì chắc chắn không tồn tại được. Nhưng các doanh nghiệp muốn chuyển đổi số thành công còn thiếu cán bộ kỹ thuật, thiếu chuyên gia về chuyển đổi số, thiếu nền tảng công nghệ số đặc thù cho từng lĩnh vực. Hiện chúng ta chưa ban hành được Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở dữ liệu và cũng chưa tích hợp được cơ sở dữ liệu của các doanh nghiệp cùng lĩnh vực, hoặc được tích hợp trong hệ thống dữ liệu quốc gia. Vì vậy mỗi doanh nghiệp xây dựng cơ sở dữ liệu theo một cấu trúc khác nhau, dẫn đến hiệu quả không cao, nhất là muốn dùng trí tuệ nhân tạo để có thể tạo lập một môi trường thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp trong các lĩnh vực hiện nay là rất khó. Điều này dẫn đến các doanh nghiệp KH&CN rất khó đáp ứng được các tiêu chí cao về doanh thu từ sản phẩm KH&CN.

Trước đây, mặc dù còn nhiều khó khăn, hạn chế trong quy định dẫn đến nhiều doanh nghiệp chưa đạt được chứng nhận doanh nghiệp KHCN, nhưng cũng có những doanh nghiệp đã làm được điều đó, theo ông là vì sao?

TS. Nguyễn Quân: Thứ nhất, họ là những doanh nghiệp không quá nhỏ, đủ năng lực và kiên trì để theo đuổi cái danh xưng “doanh nghiệp KH&CN”.

Thứ hai là họ hoạt động ở địa phương, nơi mà các cơ quan thẩm định cấp phép đủ năng lực. Ví dụ như Hà Nội, một số doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thành phố khi nộp hồ sơ nhanh chóng được thẩm định, được cấp giấy chứng nhận. Ngược lại, có nhiều địa phương, đặc biệt là vùng trung du miền núi có năng lực thẩm định và cấp phép hạn chế. Rất nhiều địa phương phải nhờ Bộ KH&CN thẩm định giúp các hồ sơ và qua nhiều cấp trung gian như thế thì thời gian kéo dài, làm nản lòng doanh nghiệp. Thậm chí, trong lúc chờ đợi rất nhiều doanh nghiệp đã từ bỏ sản phẩm KH&CN không làm nữa, có doanh nghiệp nhỏ đã phá sản hoặc đã dừng hoạt động. Chính vì thế số lượng doanh nghiệp KH&CN nhiều năm qua không đạt được chỉ tiêu mà chúng ta kỳ vọng.

Cảm ơn ông về những chia sẻ trên!

Nội dung: Bảo Hà - Hương Duyên

Đồ họa: Hương Duyên