Sự lẫn lộn giữa hệ sinh thái khởi nghiệp (startup ecosystem) và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo (innovation ecosystem) đang khiến nỗ lực chính sách của chúng ta vừa rối rắm vừa kém hiệu quả. Khởi nghiệp là tạo doanh nghiệp tăng trưởng nhanh bằng thử nghiệm mô hình, vốn mạo hiểm và lối thoái vốn rõ ràng. Đổi mới sáng tạo ở tầm nền kinh tế là nâng năng suất và khả năng hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp hiện hữu và khu vực công thông qua tiêu chuẩn, dữ liệu, chuyển giao và đặt hàng công nghệ. Khi mục tiêu, công cụ và KPI của hai hệ bị “đồng phục hóa”, cả hai cùng suy yếu: doanh nghiệp cũ không tăng năng suất, còn startup thiếu hợp đồng thật để sống sót.
![]() |
![]() |
Bài học quốc tế cho thấy quốc gia nào phân vai rạch ròi, quốc gia đó vừa tăng năng suất, vừa tạo thế hệ doanh nghiệp mới bền vững. Ở Liên minh châu Âu, mua sắm của khu vực công chiếm khoảng 14% GDP. Khái niệm “Mua sắm công vì đổi mới” (Public Procurement of Innovation - PPI) dùng năng lực mua của Nhà nước để tạo “khách hàng đầu tiên” cho giải pháp mới [Theo European Commission (2021, p.12)]; đây là đòn bẩy cầu quan trọng nhưng thường bị khai thác dưới tiềm năng. “Khách hàng đầu tiên” là một khái niệm quan trọng được hình thành bởi hợp đồng có trả phí, quy mô nhỏ (tương đương 1-10 tỷ VND), nghiệm thu chức năng, từ cơ quan chính phủ hoặc doanh nghiệp lớn, giúp startup vượt thung lũng chết. Hoa Kỳ, chương trình SBIR (Small Business Innovation Research - Chương trình nghiên cứu đổi mới cho doanh nghiệp nhỏ). Nhiều tổng kết của Viện Hàn lâm khoa học, Kỹ thuật & Y học Hoa Kỳ cho thấy, tỷ lệ thương mại hóa đáng kể ở nhiều cơ quan; các ước tính dao động theo bộ nhưng phổ biến ghi nhận tỷ lệ dự án “ra thị trường” từ vài chục phần trăm trở lên (theo SBA (2023), SBIR Phase II → 47% có doanh thu thương mại trong 5 năm; USDA SBIR: 62% dự án có sản phẩm bán ra), nhờ thiết kế theo đặt hàng nhiệm vụ, ràng buộc nghiệm thu chức năng. Tại Vương quốc Anh, chương trình SBRI nay chuyển thành “Contracts for Innovation”, nhấn mạnh bản chất hợp đồng đặt hàng nhiệm vụ thay vì “cấp phát đề tài”. Các đánh giá độc lập cho thấy cơ chế này đã tạo ra tiết kiệm đáng kể cho NHS (y tế quốc gia) và mang lại các sản phẩm thương mại hóa nhanh hơn.
Ở Đức, mạng lưới Fraunhofer hoạt động theo nguyên tắc gần “30/70” [Fraunhofer-Gesellschaft (2023, p.8)]: khoảng 30% ngân sách nền, 70% từ hợp đồng (viện phải bán được giải pháp, không phụ thuộc ngân sách nhà nước, tự động thương mại hóa). Tỷ trọng hợp đồng cao buộc viện phải “bán được giải pháp”, nhờ đó kết nối hàn lâm và công nghiệp theo nhu cầu thị trường thay vì phong trào lập công ty bằng mọi giá. Tại Đài Loan (Trung Quốc), Viện Nghiên cứu Công nghệ Công nghiệp (ITRI) đóng vai “xưởng ươm” công nghệ chiến lược và chỉ tách doanh nghiệp (spin-off) khi đã có chuỗi cung ứng và khách hàng thật; sự ra đời của TSMC là ví dụ kinh điển về tách bạch đúng vai Nhà nước và thị trường.
Israel lại dùng mô hình đồng đầu tư công-tư kiểu Yozma: Nhà nước chỉ góp vốn thiểu số, để tư nhân dẫn dắt và có quyền chọn thoái vốn; gần đây họ khởi động Yozma 2.0 để hút thêm vốn tổ chức [Theo Reuters (12/03/2024)], vẫn theo triết lý “kích hoạt thị trường, không làm thay”. Singapore triển khai nền tảng đổi mới sáng tạo mở (Open Innovation Platform - OIP) để đơn vị có nhu cầu nêu “bài toán”, doanh nghiệp và nhóm công nghệ đề xuất lời giải và ký hợp đồng thử nghiệm nhanh, một dạng PPI tinh gọn.
![]() |
Có thực trạng “Ép” viện/trường khởi nghiệp theo phong trào. Chủ trương thúc đẩy khởi nghiệp trong trường học là đúng (Đề án 1665; Đề án 844), nhưng nếu biến thành KPI đồng loạt mở “làng”, cuộc thi khởi nghiệp trên giấy, trong khi chưa xây TLO chuyên nghiệp, chuẩn dữ liệu, tiêu chuẩn hóa, dịch vụ sở hữu trí tuệ & định giá, thì vừa tạo áp lực sai, vừa tán mỏng năng lực cốt lõi của trường/viện là nghiên cứu và chuyển giao. Hay “KPI khởi nghiệp bằng sở hữu trí tuệ (IP)”, chiến lược SHTT đến 2030 đặt nhiều mục tiêu củng cố hệ thống IP là điều cần thiết. Nhưng nếu địa phương/đơn vị hiểu sai thành “đếm số đơn/giấy chứng nhận” để chấm thi/chi ngân sách, sẽ lặp lại vết xe đổ “sáng chế phong trào” như từng được Trung Quốc cảnh báo. Trung Quốc đã xoay trục, khởi nghiệp nên đo bằng khách hàng, doanh thu, tốc độ tăng trưởng; đổi mới trong doanh nghiệp hiện hữu đo bằng năng suất, tỷ lệ áp dụng công nghệ và tiêu chuẩn. Thực tế thì đang có tình trạng bất cân xứng đầu tư cho lan tỏa công nghệ: Tỷ lệ chi R&D/GDP của Việt Nam khoảng 0,42% (2021) đây là nền móng mỏng cho nhiệm vụ nâng năng suất diện rộng; đáng ra cần tập trung voucher (phiếu) đổi mới, chuẩn dữ liệu, trung tâm năng lực hấp thụ, mua sắm công vì đổi mới (PPI) để “kéo” cầu công nghệ.
Tóm lại, chúng ta có ba “điểm mù” cần nói thẳng. Thứ nhất, xu hướng “ép” viện/trường khởi nghiệp theo phong trào, làm yếu chức năng cốt lõi của trường/viện là nghiên cứu và chuyển giao. Thứ hai, “khởi nghiệp bằng chỉ tiêu sở hữu trí tuệ”, lưu ý bài học từ Trung Quốc chuyển trọng tâm vào chất lượng và thương mại hóa sau khi nảy sinh hiện tượng “bằng rác” (Trung Quốc hủy 1,2 triệu bằng sáng chế trợ cấp, năm 2024, theo báo cáo CNIPA,2024). Thứ ba, thiếu cơ chế “khách hàng đầu tiên”. Khi chưa có PPI hay hợp đồng thí điểm quy mô nhỏ, startup khó vượt qua “thung lũng chết” giữa thử nghiệm và thị trường.
Số liệu cần nhắc lại để nhấn mạnh nên thận trọng. Tỷ lệ chi cho R&D của Việt Nam khoảng 0,42% GDP (năm 2021), là nền mỏng cho nhiệm vụ lan tỏa công nghệ diện rộng. Ở chiều khởi nghiệp, tổng vốn đầu tư mạo hiểm năm 2023 vào startup Việt ước khoảng 529 triệu USD, giảm 17% so với 2022 trong bối cảnh toàn cầu suy giảm mạnh - quy mô vẫn còn khiêm tốn để tự thân tạo đột phá nếu thiếu hợp đồng từ thị trường trong nước.
Vì vậy, khuyến nghị cần tách làn và xây dựng cầu nối:
Kết luận: Muốn hệ sinh thái khỏe mạnh cần rạch ròi. Với khởi nghiệp cần cung cấp đúng “dinh dưỡng” và “khách hàng đầu tiên”; với đổi mới sáng tạo cần tạo cơ chế “đầu tư kiên nhẫn” và tăng ngân sách nền để gia cường năng lực hấp thụ công nghệ. Phân vai rõ, công cụ đúng chỗ, KPI hướng giá trị sử dụng, đó là cách ngắn nhất để biến phong trào thành năng lực quốc gia, với năng suất thật, hợp đồng thật và những doanh nghiệp mới thật sự lớn lên từ thị trường.
Tài liệu tham khảo
1. European Commission. Public Procurement of Innovation (PPI). Thông tin tổng quan và hướng dẫn. https://ec.europa.eu.
2. Innovate UK / NHS. SBRI Healthcare / Contracts for Innovation – các báo cáo tác động và hướng dẫn triển khai (2016–2024). https://iuk.ukri.org; https://sbrihealthcare.co.uk.
3. Fraunhofer-Gesellschaft. Facts and Figures; Annual Report 2023 – cơ cấu tài chính gần 30/70. https://www.fraunhofer.de.
4. ITRI (Taiwan). Lịch sử hình thành ngành bán dẫn Đài Loan và spinoff TSMC. https://www.itri.org.tw.
5. Israel Innovation Authority; Reuters. Yozma và Yozma 2.0 – cơ chế đồng đầu tư công–tư. https://innovationisrael.org.il; https://www.reuters.com.
6. IMDA Singapore. Open Innovation Platform – cơ chế nêu bài toán và hợp đồng thử nghiệm. https://www.openinnovation.sg.
7. CNIPA (China National Intellectual Property Administration). Chính sách chấm dứt trợ cấp nộp đơn sáng chế – chuyển trọng tâm sang chất lượng (2021–2025). https://english.cnipa.gov.cn.
8. World Bank. R&D expenditure (% of GDP), Việt Nam ~0,42% năm 2021. https://data.worldbank.org.
9. NIC & Do Ventures. Vietnam Innovation & Tech Investment Report 2023 – tổng vốn ~529 triệu USD, -17% so với 2022. https://nic.gov.vn; https://doventures.vc.
Nội dung: Nguyễn Mạnh Cường
Chuyên gia đổi mới sáng tạo
Đồ họa: Hà An