Nâng cấp đồng thời nhiều tiêu chí đạt chuẩn, để đại học Việt Nam lọt Top 100 thế giới

Hiện, Việt Nam có 5 trường thuộc Top 200 châu Á, ở hai bảng xếp hạng uy tín là QS và Times Higher Education (THE). Cụ thể, theo bảng QS, Đại học Duy Tân xếp thứ 127, Đại học Quốc gia Hà Nội xếp vị trí 161, Đại học Quốc gia TP. HCM xếp vị trí 184, Trường Đại học Tôn Đức Thắng xếp vị trí 199; còn Trường đại học Kinh tế TP. HCM xếp thứ 136 ở bảng THE.
Năm 2025, nhiều trường đại học Việt Nam dẫn đầu công bố quốc tế Chính phủ giao Bộ GDĐT xây dựng đề án phát triển đại học tinh hoa Đề xuất mới của Bộ GDĐT về việc sáp nhập, sắp xếp các trường đại học
Nâng cấp đồng thời nhiều tiêu chí đạt chuẩn, để đại học Việt Nam lọt Top 100 thế giới
Đại học Duy Tân đang dẫn đầu các đại học trong nước, theo bảng xếp hạng tiêu chuẩn quốc tế

Như vậy, xét trên các tiêu chuẩn, đại học Việt Nam còn cách rất xa top 100 thế giới. Để rút ngắn bảng thứ hạng, đưa đại học Việt Nam vào Top 100 thế giới phải có các chính sách ở cả tầm vĩ mô. Bên cạnh đó, các trường đại học phải tự thân nâng cấp chất lượng quản lý, đào tạo, để gia tăng nghiên cứu khoa học, quốc tế hóa chất lượng giảng dạy,…

Phấn đấu đến 2045 có 5 đại học lọt Top 100 thế giới

Trước đó, Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đặt mục tiêu: Việt Nam có ít nhất 8 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 200 hàng đầu châu Á. Đồng thời, đến năm 2030, Việt Nam có ít nhất một trường trong Top 100 thế giới ở một số lĩnh vực, nâng lên thành 5 trường lọt Top 100 thế giới vào năm 2045.

Hiện tại, ở bảng xếp hạng của THE, thứ hạng cao nhất Việt Nam đạt được là trong nhóm 301-400; còn với QS là 363. Một số ngành lẻ như Nghệ thuật biểu diễn, Kỹ thuật dầu khí có trường trong nhóm 51-100 nhưng không được tính là lĩnh vực chung.

Theo Thạc sĩ Nguyễn Vinh San, Trường Đại học Sư Phạm - Đại học Đà Nẵng, đại diện nhóm nghiên cứu bảng xếp hạng đại học Việt Nam VNUR, Nghị quyết 71-NQ/TW đã đưa ra giải pháp ở tầm vĩ mô, gồm hiện đại hóa, nâng tầm giáo dục đại học, tạo đột phá phát triển nhân lực trình độ cao và nhân tài, dẫn dắt nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và đẩy mạnh và hợp tác quốc tế sâu rộng.

Việt Nam cần cụ thể hóa các yêu cầu trọng điểm của Nghị quyết bằng các chính sách cụ thể. Trong đó, quan trọng nhất là phải tập trung nguồn lực, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào các đại học mạnh, có tiềm năng với quyết tâm cao.

ThS. Nguyễn Vinh San gợi ý chương trình xây dựng "10 đại học tinh hoa Việt Nam" hoặc tương tự, bằng cách lựa chọn nhóm trường để đầu tư với những ràng buộc về kết quả đầu ra.

Còn theo GS. Nguyễn Lộc, nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Nhà nước cần tăng tỷ trọng chi ngân sách cho giáo dục đại học. Con số này hiện chỉ quanh mức 0,2-0,3% GDP trong khi Ngân hàng Thế giới khuyến cáo nên là 1% GDP trở lên.

Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chương trình riêng cho nhiệm vụ xếp hạng đại học, với "KPI" và hạng mục đầu tư cụ thể, tương tự cách làm của Hàn Quốc và Trung Quốc. Có thể cho nhiều đại học đăng ký nếu muốn, không phân biệt công tư, thay vì chỉ đầu tư vào nhóm ít đang có sẵn một số lợi thế.

GS. Nguyễn Lộc cho rằng, cần ưu tiên nâng cao ba chỉ số mà hầu hết tổ chức xếp hạng lớn sử dụng, gồm: công bố quốc tế và các chỉ số liên quan (phải đi kèm tính liêm chính khoa học); tỷ lệ sinh viên/giảng viên; chỉ số quốc tế hóa (tỷ lệ sinh viên, giảng viên quốc tế).

Cùng ý kiến với ThS. Nguyễn Vinh San và GS. Nguyễn Lộc, một số chuyên gia giáo dục khác cũng cho rằng, Nhà nước nên khuyến khích, tạo điều kiện để các đại học được tự chủ mạnh mẽ và toàn diện hơn. Các trường đại học được chủ động thực hiện và quyết định các vấn đề học thuật, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính, trong khuôn khổ pháp luật cho phép.

Lấy ví dụ về hành trình đưa đại học lọt Top 100 thế giới của các quốc gia, GS. Nguyễn Lộc thông tin, Nhật Bản là một trong những nước khuyến khích các đại học tự chủ và đã nâng được mục tiêu 5 đại học lọt Top 100 thế giới;

Ngoài ra, Đại học Copenhagen - Đan Mạch, đang xếp quanh vị trí 100 ở cả hai bảng xếp hạng QS và THE 2025. Số lượng công bố quốc tế trong 5 năm qua là khoảng 50.000 (trong khi con số này ở một đại học top đầu nước ta chỉ khoảng 10.000).

Tỷ lệ sinh viên trên giảng viên của Đại học Copenhagen là 5, tức 5 sinh viên có một giảng viên. Sinh viên và giảng viên quốc tế chiếm tỷ lệ lần lượt khoảng 10% và 30%. Các chỉ số này đều gấp 8-10 lần một đại học tốt ở Việt Nam hiện nay.

Xác định tham gia xếp hạng là sự đầu tư lớn về mọi nguồn lực

Về nhân lực, việc xếp hạng đòi hỏi phải có một bộ phận chuyên trách đôn đốc các phòng ban làm việc, tập hợp số liệu,chuẩn bị hồ sơ để tham gia xếp hạng một cách chuyên nghiệp. Hiện mảng này trong nước còn yếu và thiếu về nhân lực.

Để gia tăng công bố quốc tế, theo GS. Lê Bảo Long, Viện Khoa học Quốc gia (INRS), Đại học Quesbec, Canada, để đạt đủ tiêu chí lọt Top 100 thế giới phải đầu tư cơ sở vật chất, đặc biệt là các phòng thí nghiệm, viện nghiên cứu.

Các trường phải chú trọng đào tạo sinh viên, nghiên cứu sinh tài năng, bởi đây là lực lượng then chốt tạo ra phần lớn kết quả nghiên cứu. Tỷ lệ học viên thạc sĩ, tiến sĩ ở một đại học nghiên cứu hàng đầu thường từ 25-70% tổng số sinh viên.

Song song với đó, các trường đẩy mạnh quốc tế hóa, hợp tác quốc tế, và hợp tác với doanh nghiệp. Các tiêu chí này khuyến khích đại học tuyển dụng đội ngũ giáo sư có nhiều quốc tịch khác nhau, thu hút sinh viên từ nhiều nước, thực hiện các hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học, trao đổi sinh viên,... Từ đó, các đại học sẽ dễ dàng định vị, được nhận biết và tạo tiếng vang với quốc tế, giúp đạt các kết quả tốt trong các khảo sát của tổ chức xếp hạng.

Để làm được điều này, các trường đại học trong nước phải đối mặt với nhiều thử thách, trong đó có vấn đề kinh phí. Kinh phí đào tạo sau đại học và nghiên cứu ở nhiều đại học nước ngoài lên tới vài trăm triệu USD mỗi năm. Thiếu cơ chế tài chính, Việt Nam sẽ không thu hút được giảng viên xuất sắc, bởi các trường tốt ở Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc,... luôn sẵn sàng cung cấp các đãi ngộ và điều kiện làm việc rất hấp dẫn để chào mời nhóm này.

Các chuyên gia giáo dục kỳ vọng, các nghị quyết của Bộ Chính trị như Nghị quyết 57-NQ/TW (phát triển khoa học, công nghệ), Nghị quyết 68-NQ/TW (phát triển kinh tế tư nhân), Nghị quyết 71-NQ/TW (phát triển giáo dục và đào tạo) sẽ thúc đẩy Việt Nam đưa ra các chính sách đột phát để đạt mục tiêu thăng hạng đại học.

Ngọc Nguyên (tổng hợp)

Đường dẫn bài viết: https://tudonghoangaynay.vn/nang-cap-dong-thoi-nhieu-tieu-chi-dat-chuan-de-dai-hoc-viet-nam-lot-top-100-the-gioi-17051.htmlIn bài viết

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2024 https://tudonghoangaynay.vn/ All right reserved.