Theo thống kê, hơn 90% camera tại Việt Nam có xuất xứ từ Trung Quốc và đều có mã trong phần mềm để đồng bộ với máy chủ. Đối với camera khả năng lộ thông tin cá nhân ra bên ngoài là rất cao, trừ khi tất cả camera đều được sản xuất bởi các công ty ở Việt Nam.
• Nhiều nước cấm bán thiết bị giám sát an ninh của Trung Quốc
Một vài công ty ở trong nước có khả năng sản xuất được camera, nhưng phần cứng vẫn từ Trung Quốc và tìm hiểu sâu thì phát hiện ra những dòng mã liên quan đến các trang web Trung Quốc. Nhà mạng này đề xuất cơ quan quản lý nên có tiêu chuẩn về thiết bị cho hệ sinh thái số nhằm đảm bảo an toàn thông tin.
Camera giám sát hiện nay không chỉ được dùng ở hộ gia đình mà các đô thị thông minh, nơi công cộng, nơi làm việc,…. Vì vậy vấn đề an toàn, an ninh thông tin nên đặt lên hàng đầu. Bên cạnh đó, phải tính đến yếu tố lưu trữ thông tin người dùng và xử lý video tại Việt Nam, bởi Luật An ninh mạng cấm lưu trữ thông tin ở nước ngoài. Chính vì vậy cần các cơ quan quản lý nhà nước phải thiết lập tiêu chuẩn về an toàn và tổ chức đánh giá, cấp phép cho các loại camera lưu hành trên thị trường.
Nhà mạng Việt bắt đầu nhắm đến thị trường Camera thông minh
Việc các nhà mạng tham gia sản xuất camera AI sẽ mang nhiều lợi ích cho người dùng khi lựa chọn sản phẩm; yên tâm về bảo mật thông tin cá nhân với chi phí tối ưu và được sử dụng kèm theo với các dịch vụ viễn thông khác.
Theo đại diện các nhà mạng đều chung nhận định rằng doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể phát triển cung cấp camera Make in Vietnam, theo tiêu chuẩn chất lượng phù hợp và dần lấy lại thị phần trên sân nhà.
Chia sẻ tại buổi tọa đàm “Tiêu chuẩn nào cho camera Make in Vietnam” do báo VietNamNet tổ chức mới đây, ông Khương Duy – Giám đốc Trung tâm Camera của Viettel High Tech bày tỏ mong muốn cung cấp sản phẩm đảm bảo an ninh, an toàn cho khách hàng với sản phẩm Make in Vietnam by Viettel.
Theo ông Khương Duy, thị trường camera giám sát ở Việt Nam có tiềm năng tăng trưởng lớn (tăng trưởng kép CARG xấp xỉ 20%); tỷ lệ thâm nhập camera ở Việt Nam hiện ở khoảng 30 camera/1.000 dân. Nếu so với Trung Quốc, Mỹ thì tỷ lệ ở Việt Nam mới chỉ bằng 1/5. Dự kiến đến năm 2025 Việt Nam ước tính có khoảng 15 triệu camera. Có thể thấy với tiềm năng tăng trưởng lớn của thị trường Việt Nam trong khi đó 90% thị phần là các sản phẩm Trung Quốc với rất nhiều sản phẩm trôi nổi, không đảm bảo an toàn bảo mật thì các nhà mạng với lợi thế tập khách hàng lớn đang sử dụng dịch vụ có rất nhiều lợi thế trong việc tiếp cận khách hàng để đưa các sản phẩm ra thị trường.
Viettel High Tech tham gia thị trường camera với định hướng xây dựng một hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ đa dạng và toàn diện cho tập khách hàng hộ gia đình đang sử dụng dịch vụ FTTH.
Ông Duy cũng nhấn mạnh rằng, các sản phẩm camera AI của Viettel High Tech có hệ thống quản lý và lưu trữ tại Viettel, các tính năng thông minh do người Việt nghiên cứu phát triển và làm chủ. Việc các nhà mạng tham gia sản xuất camera AI sẽ mang nhiều lợi ích cho người dùng khi lựa chọn sản phẩm; yên tâm về bảo mật thông tin cá nhân với chi phí tối ưu và được sử dụng kèm theo với các dịch vụ viễn thông khác. Viettel High Tech không tập trung cuộc chiến về giá, giá trị mang lại không chỉ là bản thân sản phẩm camera mà là cả một giải pháp, nền tảng, hệ sinh thái nhằm mục đích mang đến nhiều giá trị gia tăng cho người dùng. Đặc biệt, doanh nghiệp tập trung vào tính năng an toàn cho người dùng cá nhân, bảo mật an toàn trong xây dựng giao thông thông minh, đô thị thông minh, phục vụ cho các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh…
Nói về các thế mạnh của các nhà mạng Việt Nam, Ông Hoàng Quốc Huy – Phó Tổng giám đốc MobiFone Global cho biết, đối với doanh nghiệp viễn thông, camera giờ không phải như ngày xưa, kết nối cáp đồng trục và mỗi hộ phải có một đầu thu, giờ là camera IP kết nối Internet. Hiện nay dịch vụ camera gần giống như một dịch vụ viễn thông. Do cần phải có kết nối đường truyền kết nối, lưu trữ trên cloud,… đây là thế mạnh của các nhà mạng. Doanh nghiệp nước ngoài sẽ không có được sự kết nối với các nhà mạng như các doanh nghiệp sản xuất camera trong nước.
Mục tiêu cạnh tranh trên thị trường camera trong nước, cũng như các sản phẩm nói chung và sản phẩm công nghệ nói riêng, việc cạnh tranh phần lớn phụ thuộc vào giá, chất lượng và dịch vụ. Từ vài năm gần đây, IP camera trở nên phổ biến với rất nhiều chủng loại, chất lượng, nguồn gốc khác nhau. Sau một thời gian sử dụng, người dùng đã nhận biết và quan tâm nhiều hơn tới chất lượng và đặc biệt là tính an toàn tin cậy của camera giám sát.
Do vậy, các sản phẩm của tất cả các hãng camera trong nước đều hướng tới tiêu chí đảm bảo chất lượng, tính năng phù hợp nhiều phân khúc người dùng, và đặc biệt là có độ tin cậy về an toàn bảo mật thông tin, dữ liệu cho người dùng. Đồng thời, được kết nối hỗ trợ kỹ thuật tập trung ngay trong nước, kịp thời cập nhật và cảnh báo khi có nguy cơ, lỗ hổng an ninh.
An An