Việt Nam hiện có hơn 600 tờ tạp chí. Gần 400 tạp chí khoa học được Hội đồng Chức danh nhà nước đưa vào diện tính điểm khoa học. Trong đó đa số là các tạp chí thuộc hội ngành, xuất bản bằng bản giấy là chính và khó hội nhập quốc tế được do chưa theo kịp các tiêu chí của các tạp chí khoa học uy tín trong khu vực và quốc tế.
Nhiều đại biểu tham dự Hội thảo “Chuyển đổi số tạp chí khoa học của Việt Nam” (diễn ra ngày 15/4 tại Hà Nội) cho rằng điều này đề ra yêu cầu cấp thiết là các tạp chí khoa học phải đổi mới cách thức thực hiện nội dung, hình thức trình bày,… và đặc biệt là số hóa hoạt động của tạp chí.
Theo khảo sát của Cục thông tin khoa học và Công nghệ quốc gia (NASATI) trong năm 2019, với 155 tờ tạp chí có đến 66% tạp chí chỉ xuất bản dạng giấy, 33% là xuất bản gồm điện tử và giấy, chỉ có 1% xuất bản dạng điện tử. Điều đáng nói, nếu phân theo loại hình cơ quan chủ quản thì khối tạp chí thuộc hiệp hội, hội nghề nghiệp có đến 94% xuất bản bằng bản giấy. Khối tạp chí thuộc bộ/ngành/viện nghiên cứu là 75%. Tạp chí thuộc trường đại học có tỷ lệ xuất bản bản in ít nhất (55%).
Trong khi đó, để hội nhập, để được xếp hạng tạp chí uy tín của khu vực và quốc tế, các tạp chí cần phải đáp ứng được các tiêu chí đánh giá như xếp hạng, tỷ lệ trích dẫn, thành viên ban biên tập quốc tế, lượng bài báo quốc tế,… Và để đạt được điều đó, các tạp chí cần gia tăng sự hiện diện và tầm ảnh hưởng của mình đối với bạn đọc trong nước và quốc tế thông qua xuất bản điện tử.
Phát biểu tại hội thảo, với tư cách đơn vị chủ trì, ông Trần Đắc Hiến – Cục trưởng Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia cho biết hết các tạp chí khoa học tại Việt Nam chưa được xuất bản trên các nền tảng điện tử chuyên dụng nên việc truyền thông, phổ biến kết quả nghiên cứu ra thế giới còn rất hạn chế. Số lượng tạp chí vào kênh trích dẫn ACI (Asean Citation Index) còn rất ít. Chúng ta còn cách xa Thái lan, Malaysia, Indonesia rất xa. Mặc dù còn có ý kiến tranh cãi về ACI nhưng đây vẫn là kênh được nhiều nước trong khu vực tham gia. “Chúng ta muốn học lên cấp 3 thì phải học qua cấp 2, phải gia nhập dần vào cơ sở dữ liệu khu vực rồi tiến tới cơ sở dữ liệu hàng đầu thế giới như ISI, Scopus,…”. Ông Trần Đắc Hiến còn nhấn mạnh: “Chúng ta muốn để cho cộng đồng thế giới biết được các nhà khoa học Việt Nam đang nghiên cứu cái gì, chất lượng đến đâu thì cần phải tham gia vào cơ sở dữ liệu khoa học quốc tế bằng cách tạo lập trên nền tảng số, xuất bản điện tử”.
Cùng quan điểm, ông Cao Minh Kiểm – Tổng Thư ký Hội Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia cho rằng trong khi nhiều tạp chí khoa học trên thế giới tích cực tham gia vào hệ thống tạp chí truy cập mở, siêu truy cập mở để tăng tính tương tác và ứng dụng mã định danh DOI để tham gia xếp hạng thì hầu hết tạp chí khoa học Việt Nam vẫn xuất bản bằng cách thức truyền thống – bản in giấy. Điều này dẫn đến mặc dù số lượng tạp chí khoa học nhiều nhưng số tạp chí được xếp hạng uy tín cao của quốc tế còn rất ít. Ông Kiểm nhấn mạnh: Xuất bản tạp chí truy cập mở là vấn đề cần được quan tâm và phát triển tại Việt Nam.
Cần thiết xây dựng Bộ chỉ số cho tạp chí khoa học Việt Nam
Ông Phan Trọng Thịnh – Tổng biên tập Tạp chí Vietnam Journal of Earth Science – Viện Hàn lâm KH và CN Việt Nam dẫn số liệu của Scopus cho thấy cả về số lượng công bố bài báo khoa học đến số lượng trích dẫn đều cho thấy Việt Nam đang đứng sau Malaysia, Singapore, Thái Lan, Indonesia.
Việt Nam cũng mới chỉ có 20 tờ tạp chí khoa học tham gia vào kênh ACI, trong khi đó Indonesia có 209, Thái Lan có 192, Malaysia có 143. Điều đáng nói, các tiêu chí do ACI đưa ra Việt Nam đều có thể đáp ứng nếu các cơ quan tạp chí lưu tâm.
Tuy nhiên, ông Phan Trọng Thịnh cho rằng để vươn tầm xa hơn khu vực là lọt vào ISI, Scopus thì Việt Nam cần xây dựng bộ chỉ số cho các tạp chí khoa học để các tạp chí thực hiện và đạt được các tiêu chí của họ.
Qua VCI có thể chủ động đánh giá chất lượng tạp chí khoa học trong nước; sử dụng trong tuyển chọn GS, PGS tại hội đồng học hàm nhà nước; đánh giá chất lượng các trường đại học/viện nghiên cứu/học viên cao học, nghiên cứu sinh; tránh tình trạng cảm tính trong đánh giá điểm của mỗi tạp chí. Còn một lý do nữa để VCI trở nên cấp thiết là từ năm 2017, Hội đồng Học hàm giáo sư Nhà nước đã có ý định xây dựng VCI nhưng đến nay vẫn chưa thành.
Điều quan trọng, theo ông Phan Trọng Thịnh, để thực hiện được VCI thì xuất bản online là tiên quyết. Muốn vậy cũng cần có các tổng biên tập có nhiệt huyết, có uy tín và sự hỗ trợ của Nhà nước bởi vì khối lượng công việc lớn, kinh phí cũng không hề nhỏ.
Trà Giang
Tại Việt Nam từ năm 2007, NASATI đã đưa vào vận hành Tạp chí khoa học Việt Nam trực tuyến – VJOL (www.vjol.info.vn). Đây là nền tảng trực tuyến đăng tải cơ sở dữ liệu các tạp chí khoa học Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực, cho phép độc giả tiếp cận tri thức khoa học Việt Nam và nâng cao hiểu biết của thế giới về nền học thuật Việt Nam. VJOL được xây dựng trên nền tảng phần mềm nguồn mở OJS do Dự án Tri thức công cộng của Canada xây dựng.
Hiện có 120 tạp chí khoa học Việt Nam tham gia vào hệ thống VJOL. Việc tham gia của các tạp chí là tự nguyện, dựa trên nhận thức về các lợi ích mang lại.