Ngày 8/5/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 100/2025/NĐ-CP, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 56/2025/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Điện lực, bao gồm các nội dung liên quan đến quy hoạch phát triển điện lực, phương án cấp điện, đầu tư xây dựng dự án điện lực và lựa chọn nhà đầu tư dự án kinh doanh điện.
Một trong những điểm đáng chú ý của Nghị định 100 là sửa đổi, bổ sung Điều 15 của Nghị định 56, trong đó điều chỉnh tên điều khoản thành: "Cơ chế bảo đảm tiêu thụ nguồn khí thiên nhiên khai thác trong nước; nguyên tắc chuyển ngang giá nhiên liệu sang giá điện và sản lượng điện hợp đồng tối thiểu dài hạn cho các dự án nhiệt điện khí".
Đồng thời, Nghị định số 100/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 3, khoản 4 Điều 15 Nghị định số 56/2025/NĐ-CP về cơ chế phát triển các dự án nhiệt điện khí.
Cơ chế phát triển các dự án nhiệt điện khí sử dụng khí thiên nhiên khai thác trong nước
Theo quy định mới:
a) Các dự án nhiệt điện khí sử dụng khí thiên nhiên khai thác trong nước sẽ được vận hành ở mức tối đa theo khả năng cấp khí, đáp ứng các yêu cầu ràng buộc về nhiên liệu,công suất, sản lượng phát điện khả dụng của dự án nhiệt điện khí và nhu cầu, ràng buộc kỹ thuật của hệ thống điện quốc gia.
b) Quy định tại điểm a được áp dụng cho các dự án nhiệt điện khí sử dụng khí thiên nhiên trong nước, đã được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận nghiệm thu hoàn thành công trình của chủ đầu tư và đưa vào vận hành trước ngày 01/01/2036. Cơ chế này sẽ được duy trì cho đến khi nhà máy không còn sử dụng khí thiên nhiên trong nước để phát điện.
c) Trong trường hợp thiếu khí thiên nhiên khai thác trong nước, bên mua và bên bán điện sẽ cùng thỏa thuận, thống nhất phương án sử dụng nhiên liệu thay thế và điều chỉnh giá điện trong hợp đồng theo quy định hiện hành.
![]() |
Cơ chế phát triển các dự án nhiệt điện khí sử dụng LNG nhập khẩu
Với các dự án sử dụng khí hóa lỏng (LNG) nhập khẩu:
a) Sản lượng điện hợp đồng tối thiểu dài hạn phải đạt ít nhất 65% sản lượng điện phát bình quân nhiều năm của dự án nhiệt điện khí, áp dụng trong thời gian trả nợ gốc và lãi vay nhưng không quá 10 năm kể từ khi vận hành phát điện.
b) Sau khi kết thúc thời gian áp dụng sản lượng điện hợp đồng tối thiểu dài hạn, các bên sẽ tiếp tục đàm phán, thỏa thuận để xác định sản lượng điện hợp đồng hoặc tỷ lệ điện năng thanh toán theo giá hợp đồng cho những năm tiếp theo, trên cơ sở tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành có liên quan.
c) Sản lượng điện phát bình quân nhiều năm được xác định căn cứ theo Quy định phương pháp tính giá dịch vụ phát điện, nguyên tắc xác định giá điện đối với dự án điện lực, cùng các nội dung chính của hợp đồng mua bán điện do Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành và được quy định cụ thể trong hợp đồng mua bán điện.
d) Quy định tại điểm a, b và c khoản này áp dụng cho các dự án nhiệt điện khí sử dụng LNG nhập khẩu được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra văn bản thông báo chấp thuận kết quả nghiệm thu hoàn thành công trình của chủ đầu tư và bắt đầu vận hành phát điện bằng LNG nhập khẩu trước ngày 01/01/2036.
Trách nhiệm của các bên trong thị trường điện
Ngoài ra, Nghị định số 100/2025/NĐ-CP cũng điều chỉnh, bổ sung điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 15 của Nghị định số 56/2025/NĐ-CP nhằm đảm bảo tính thống nhất với các sửa đổi tại khoản 3 và khoản 4 Điều 15.
Theo đó, Bên mua điện và Bên bán điện có trách nhiệm phối hợp đàm phán, thỏa thuận và thống nhất các nội dung cụ thể trong hợp đồng mua bán điện, đảm bảo tuân thủ đầy đủ các quy định tại Điều này cũng như các quy định pháp luật có liên quan.
Bên cạnh đó, Đơn vị điều độ hệ thống điện quốc gia và Đơn vị điều hành giao dịch thị trường điện phải xây dựng kế hoạch vận hành hệ thống điện và điều hành các giao dịch thị trường điện cạnh tranh theo đúng quy định tại Điều này, đồng thời tuân thủ các quy định pháp luật liên quan đến thị trường điện cạnh tranh và công tác điều độ hệ thống điện do Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành.
Nghị định số 100/2025/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 8/5/2025.