![]() |
Cơ hội nào cho ngành đóng tàu Việt Nam?
Tại hội thảo chủ đề: “Chuyển đổi xanh trong ngành hàng hải và điện gió ngoài khơi - Tiềm năng phát triển tại Việt Nam” nằm trong Triển lãm Vietship 2025 ngày 6/3, ông Phạm Hoài Chung - Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty công nghiệp Tàu thủy (SBIC) chia sẻ, kinh tế vận tải biển và công nghiệp tàu thủy là ngành có sức lan tỏa rộng nhất trong chiến lược phát triển kinh tế biển của mỗi quốc gia biển. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước, cùng các bộ, ngành đã đưa ra nhiều giải pháp, kế hoạch hành động nhằm phát triển ngành công nghiệp đóng tàu,...
![]() |
Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: Duyên Nguyễn |
Cùng với đó, công nghiệp tàu thủy Việt Nam đã đóng được hầu hết các gam tàu tổng hợp, tàu hàng rời, tàu dầu, tàu chở ô tô, xây dựng được một số cơ sở công nghiệp phụ trợ hỗ trợ ngành công nghiệp tàu thủy.
Theo ông Chung, bối cảnh nhu cầu về vận tải biển của Việt Nam không ngừng tăng cao, xuất khẩu hàng hóa qua đường biển chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Đó là một trong những thuận lợi lớn cho ngành đóng tàu Việt Nam phát triển. Đồng thời, các doanh nghiệp đóng tàu FDI có thế mạnh về công nghệ, đang phát triển tốt, vẫn còn dư địa cho đầu tư, mở rộng năng lực sản xuất. Lực lượng lao động cũng trẻ, có kỹ năng, dễ đào tạo, chi phí lao động cạnh tranh cũng là lợi thế lớn.
Theo quy định của Tổ chức hàng hải quốc tế IMO về bắt buộc chuyển đổi năng lượng sạch theo COP 26 sẽ là nhân tố thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành công nghiệp đóng tàu trong thời gian tới. Chính vì vậy, để nắm bắt được cơ hội, Việt Nam cần tận dụng và phát huy những lợi thế sẵn có và cần có những giải pháp cụ thể trong từng vấn đề từ nguồn nhân lực, chính sách, công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng, tháo gỡ vướng mắc về tài chính.
Với sự phát triển của thương mại toàn cầu, nhu cầu vận tải biển của Việt Nam cũng được dự báo sẽ tăng trưởng mạnh mẽ khoảng 10%/năm trong giai đoạn 2023-2030 với mục tiêu đội tàu Việt Nam nhằm tăng thị phần vận tải hàng xuất nhập khẩu cũng như đảm nhận 100% nhu cầu vận tải nội địa. Vì vậy, ông cho rằng xu hướng nhu cầu đóng tàu gia tăng để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước.
Định hướng giai đoạn đến năm 2030 đội tàu biển Việt Nam được cơ cấu lại và phát triển khoảng 1.600- 1750 chiếc với tổng trọng tải đạt từ 17-18 triệu tấn để phát triển kinh tế biển, trong đó, đội tàu vận tải biển khoảng 1.200 chiếc với tổng trọng tải khoảng 13-14 triệu tấn. Dự báo tổng nhu cầu đóng mới bổ sung, thay thế đội tàu vận tải biển Việt Nam giai đoạn từ nay đến năm 2030 khoảng 4-5 triệu DWT, bình quân khoảng 0,7-0,8 triệu DWT/năm (bao gồm cả số lượng tàu đóng mới và thay thế đội tàu cũ).
Trên thế giới, mức tăng trưởng đơn hàng đóng mới tàu ngày càng tăng khi năm 2024 là 220,52 tỷ USD (tăng trưởng là 6,5% so năm trước). Dự báo giai đoạn 2024-2028, quy mô thị trường đóng tàu dự kiến sẽ tăng khoảng 22,1 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng bình quân là 3,95% /năm và sẽ dự kiến đạt khoảng 195 tỷ USD vào năm 2030.
“Đội tàu đóng mới theo xu thế hiện đại hơn, trọng tải lớn hơn và nhu cầu ngày càng tăng đối với tàu chuyển đổi công nghệ xanh và sử dụng nhiên liệu sạch. Ngành công nghiệp tàu thủy Việt Nam đang và sẽ đón nhận nhiều thuận lợi cơ hội từ môi trường vĩ mô và xu hướng phát triển của thị trường” – ông Phạm Hoài Chung nhấn mạnh.
Trong xu thế phát triển đội tàu biển, chuyển đổi năng lượng xanh và giảm phát thải khí carbon cũng đặt ra nhiều thách thức cho ngành đóng tàu Việt Nam khi các cơ sở đóng tàu chưa đủ hạ tầng và nguồn lực để sản xuất tàu xanh. Đồng thời, chưa có chính sách ưu đãi rõ ràng về thuế, phí, tài chính hỗ trợ.
Nói về những quy định khắt khe của ngành vận tải biển trong việc chuyển đổi năng lượng xanh của tàu biển và phương tiện thủy nội địa Việt Nam, Phó Cục trưởng Cục Đăng kiểm Việt Nam Trần Ánh Dương cho biết, hiện Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 876, với định hướng giai đoạn 2022-2030 khuyến khích tàu biển tuân thủ MARPOL, đầu tư phương tiện dùng năng lượng xanh. Từ năm 2031-2050, định hướng 100% tàu biển hoạt động tuyến nội địa chuyển đổi sang sử dụng điện, năng lượng xanh.
![]() |
Ngành đóng tàu của Việt Nam sẽ rất phát triển nếu nắm bắt và chuyển đổi xanh đúng hướng |
Bứt tốc để chuyển dịch nhanh
Hiện nay, phần lớn cơ sở hạ tầng và công nghệ của các nhà máy đóng tàu của Việt Nam đầu tư với thời gian đã lâu và không đồng bộ về công suất cũng như công nghệ, thiếu nguồn vốn để đổi mới công nghệ nên khả năng cạnh tranh với các sản phẩm hiện đại trên thị trường quốc tế còn thấp.
Mặt khác, các ngành công nghiệp phụ trợ như luyện kim, thép, chế tạo máy hầu như chưa có, toàn bộ vật tư chính cho đóng tàu phải nhập khẩu làm giảm tính chủ động và khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp tàu thủy Việt Nam; trình độ, năng suất lao động còn thấp; hạn chế công tác thiết kế dẫn đến khả năng phát triển sản phẩm mẫu thích ứng thị trường còn thấp.
Để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành đóng tàu trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, trước hết, Việt Nam cần tận dụng tốt xu thế chuyển dịch của ngành đóng tàu thế giới từ châu Âu và Bắc Mỹ về châu Á cùng với những tiềm năng sẵn có của đất nước (về vị trí địa lý và nguồn nhân công,…) trong việc phát triển ngành.
Công nghiệp đóng tàu là ngành công nghiệp nặng đòi hỏi sự đầu tư hạ tầng lớn nên cần sự hỗ trợ về cơ chế của Chính phủ. Các doanh nghiệp cần chủ động tăng cường hợp tác với các quốc gia mạnh về ngành đóng tàu ở châu Âu nhằm tận dụng sự hỗ trợ về vốn cũng như chuyển giao công nghệ; phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ cũng là yếu tố quan trọng nhằm bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững đối với ngành công nghiệp tàu thủy.