Dự thảo Tờ trình Đề án Quy hoạch điện VIII sửa đổi sau khi được Bộ Công Thương trình lấy ý kiến đóng góp (ngày 30/8/2021) đã tạo nên cuộc tranh luận sôi nổi trong giới doanh nghiệp, nhà khoa học cũng như các nhà quản lý trong những ngày qua. Vấn đề quan tâm là cơ cấu nguồn điện đến 2030, 2045, điểm nhấn là quy hoạch tăng thêm khoảng 3.000MW điện than và giảm khoảng 8.000 MW điện tái tạo vào năm 2030.
• Còn phát triển điện than là đi ngược xu hướng thế giới và khó khả thi
• Quy hoạch điện VIII điều chỉnh có đi ngược quan điểm ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo?
Tại cuộc Tọa đàm trực tuyến: “Quy hoạch điện VIII – Mở đường hay thắt lại chuyển dịch xanh” do Liên minh Năng lượng bền vững Việt Nam (VSEA) tổ chức chiều 16/9 thu hút sự quan tâm của gần 250 người, bao gồm nhà khoa học, doanh nghiệp, nhà quản lý,… cũng đã tạo nên cuộc tranh luận sôi nổi về những con số này.
Chọn điện than để an toàn vận hành trước mắt hay chọn năng lượng bền vững trong tương lai?
Bà Ngụy Thị Khanh – Chủ tịch VSEA cho rằng, ngoài việc tăng điện than, giảm điện năng lượng tái tạo (NLTT) thì trong cơ cấu công suất nguồn điện năm 2030 và 2045 cũng có điểm bất hợp lý. Khác với những quy hoạch trước, quy hoạch lần này đưa ra tỷ lệ các nguồn theo một khoảng gồm cận dưới và cận trên thay vì một con số tỷ lệ cụ thể. Ví dụ năm 2030, điện than chiếm 28,3 – 31,2%, năng lượng tái tạo chiếm 24,3 – 25,7%. Tuy nhiên, bảng công suất chi tiết các loại nguồn cho thấy với điện than cận trên được lựa chọn (31,2%), trong khi với năng lượng tái tạo lại sử dụng cận dưới (24,3%).
Số liệu cơ cấu nguồn điện than trong 10 năm chính của quy hoạch (2021-2030), nhiệt điện than vẫn tiếp tục tăng mạnh, khoảng 22.000 MW từ nay tới 2030, đưa tổng công suất điện than năm 2030 lên gần gấp đôi so với mức hiện có vào năm 2020, giai đoạn 2030 – 2045 tăng thêm khoảng 8000 MW. VSEA cho rằng đây là lựa chọn ẩn chứa nhiều rủi ro và khó khả thi. Xem thêm bài viết “Còn phát triển điện than là đi ngược xu hướng thế giới và khó khả thi”
Dẫn chứng cho điều này, bà Ngụy Thị Khanh đưa ra con số thống kê cho thấy thực tế nhiều dự án điện than đã bị chậm tiến độ từ Quy hoạch điện VII, nay lại tiếp tục đẩy lùi thời gian vận hành trong Quy hoạch điện VIII.
Ngoài ra, khi các nước trên thế giới đã cam kết thu hẹp, bỏ điện than từ góc nhìn tiếp cận vốn cũng rất khó khả thi cho Việt Nam. Nếu phân loại rõ 30.000 MW điện than dự kiến phát triển từ nay tới 2045 sẽ thấy các nhóm sau:
Trong bản kiến nghị gửi Bộ Công Thương ngày 13/9, VSEA cho rằng, trong khi lộ trình “điện cạnh tranh” chưa rõ ràng, bố trí nguồn lực thực hiện Quy hoạch, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư chưa thuyết phục thì cơ cấu điện than và NLTT như vậy là trái ngược với mục tiêu, quan điểm và giải trình của Dự thảo và không phản ánh được tinh thần của Nghị quyết 55-NQ/TW, các cam kết quốc tế, phát ngôn của lãnh đạo cấp cao của Nhà nước, xu hướng chung trên thế giới chuyển dịch năng lượng bền vững từ “nâu” sang “năng lượng xanh, sạch” và thực tiễn tiềm năng to lớn của các nguồn NLTT cần được đầu tư, khai thác.
Nhiều đại biểu cũng cho rằng Quy hoạch điện VIII tuy có thể hiện rõ quan điểm, mục tiêu ưu tiên phát triển NLTT, đặc biệt là nguồn NLTT phân tán nhưng trong cơ cấu nguồn điện lại bất hợp lý.
Ông Nguyễn Quang Huân – Đại biểu Quốc hội khóa XV, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch HĐQT, Công ty Halcom Việt Nam cho rằng Quy hoạch điện VIII cơ bản có bám vào Nghị quyết 55, đang cố gắng sửa chữa những cái chưa tốt trong Quy hoạch điện VII (chưa cập nhật, không bám vào định hướng của Đảng và Nhà nước). Tuy nhiên, tăng điện than là vấn đề phải cân nhắc.
Theo ông Huân, khi đã nói đến phát triển bền vững, tức là phải xem xét đến các yếu tố hiệu quả kinh tế đi liền với đảm bảo sức khỏe, môi trường, các tác động xã hội khác. Hơn nữa, đã gọi là an ninh năng lượng thì phải có cơ sở đảm bảo lâu dài, nếu chỉ chấp chới thì không thể gọi là an ninh năng lượng lâu dài được, lại càng không thể dựa vào cái thuận lợi trước mắt như than rẻ, an toàn vận hành,….. ”Điện than chắc chắn sẽ ảnh hưởng môi trường. Trong khi vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng gia tăng. Để có được điều đó, Việt Nam đã phải nỗ lực thể hiện sự phát triển bền vững. Điện than không thể loại ngay lập tức trong đời sống kinh tế – xã hội nhưng phải có lộ trình để một ngày nào đó phải chấm dứt hoàn toàn. Chúng ta cần có ý thức sâu sắc về việc không thể cứ làm rồi mấy chục năm sau đi khắc phục hậu quả”. Ông Huân khẳng định.
Đồng tình với ý kiến của ông Huân, PGS.TS. Lê Anh Tuấn – nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu về Biến đổi khí hậu, Đại học Cần Thơ nhấn mạnh: Dự thảo Quy hoạch điện VIII hiện nay so với các bản dự thảo trước đang mở ra cho “năng lượng đen” và thắt lại sự phát triển của nguồn năng lượng xanh. Trong khi phát triển nguồn “năng lượng đen” tác động xấu đến môi trường, đến các vùng sản xuất nông nghiệp do chất thải than, mở rộng vùng lưu trữ than,… Đây là bài học của các nhà máy điện hóa thạch ở miền Bắc, miền Trung.
“Tăng điện than là tăng chi phí giải quyết vấn đề môi trường về sau. Tăng điện than cũng là tiếp tục đi ngược lại các cam kết của Chính phủ về giảm phát thải khí nhà kính, đồng thời giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu khi phải đối mặt với thuế carbon từ các đối tác lớn, trong đó có Liên minh châu Âu. Đồng thời chúng ta cũng khó thực hiện được Cam kết Pari về chống biến đổi khí hậu”.
Với góc nhìn từ Đồng bằng Sông Cửu Long, PGS.TS. Lê Anh Tuấn cũng cho rằng việc xây dựng các nhà máy điện than mới đang mâu thuẫn với Dự thảo Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030 mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang xây dựng, tăng nguy cơ về ô nhiễm môi trường, gây tác động xã hội, đặc biệt tại các vùng sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Trong khi đó, Đồng bằng Sông Cửu Long lại có tiềm năng lớn về NLTT, các công nghệ về NLTT và lưu trữ đang phát triển nhanh ngày càng rẻ hơn.
Từ góc nhìn doanh nghiệp, ông Mai Văn Trung – Phó Chủ tịch Công ty Nami Energy chia sẻ: Bản dự thảo Quy hoạch điện VIII không chỉ thắt lại sự phát triển của lĩnh vực NLTT trong nhiều năm tới. Trước mắt, việc thắt chặt NLTT và đặc biệt là điện mặt trời cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nhân lực đang làm trong ngành và mất cơ hội tiếp cận nguồn điện sạch của người tiêu dùng, của các doanh nghiệp. Họ không được tận dụng điện mặt trời giá rẻ, phải mua điện giá đắt từ nguồn điện truyền thống. Doanh nghiệp nói chung không cắt giảm được chi phí, riêng doanh nghiệp xuất khẩu còn phải đối mặt với thách thức lớn khi châu Âu và Bắc Mỹ sẽ áp trần tỉ trọng sử dụng điện sạch trong tổng điện chung để tạo ra sản phẩm xuất khẩu trong năm 2022.
Ông Mai Văn Trung còn cho rằng khi nước ta đang phát triển mạnh mẽ các các khu công nghiệp, thu hút vốn FDI, muốn thu hút nguồn vốn đầu tư này các doanh nghiệp đó cần được tiếp cận nguồn năng lượng sạch. “8 năm làm việc trong ngành điện mặt trời, chúng tôi chứng kiến chuỗi giá trị trong ngành này đang giảm liên tục, nếu theo quy hoạch này điện mặt trời còn có xu hướng giảm tiếp”.
Trả lời câu hỏi, với cơ cấu nguồn điện trong Dự thảo Quy hoạch điện VIII có thụt lùi hay không?, TS. Nguyễn Đức Tuyên, Bộ môn Hệ thống điện của Đại học Bách khoa Hà Nội cho rằng từ số liệu cho thấy điện năng lượng tái tạo đang bị giảm và chúng ta gần như có câu trả lời. Việc giảm là có định hướng nhất định để đảm bảo vận hành an toàn kỹ thuật. Tuy nhiên, TS. Nguyễn Đức Tuyên cũng nêu các câu hỏi ngược lại: Chọn hệ thống điện đảm bảo cho vận hành an toàn trước mắt hay chọn hệ thống điện bền vững lâu dài?; chúng ta có dũng cảm chọn con đường cho nhiều năm sau hay chỉ hướng về cái thuận lợi trước mắt?.
“Nếu được, chúng ta hãy dũng cảm chọn một hệ thống điện mà tỉ lệ nguồn năng lượng sạch lớn hơn, theo đuổi bước đi của các nước tiên tiến trên thế giới, tránh lặp lại những cái chúng ta nghĩ là bền vững nhưng lại trở nên lạc hậu trong thời gian tới”. TS Nguyễn Đức Tuyên nhấn mạnh.
Khuyến khích tư nhân đầu tư và thúc đẩy công nghệ để phát triển NLTT
Tại tọa đàm, Liên minh Năng lượng bền vững Việt Nam nêu ra các kiến nghị đã được gửi Bộ Công Thương trước đó.
Cụ thể, VSEA cho rằng, Quy hoạch điện VIII nên kiên định với con đường phát triển năng lượng tái tạo, tránh bị những trở ngại của năng lượng tái tạo vừa qua cản trở định hướng này; những dự án điện than có tính khả thi thấp, các địa phương không ủng hộ và khó tiếp cận tài chính (tương đương khoảng 16.400 MW) cần được xem xét lại cẩn trọng và tìm các phương án thay thế; để tạo điều kiện khai thác hiệu quả nguồn năng lượng tái tạo, Quy hoạch điện VIII nên đưa giải pháp khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư lưới điện và xem xét ngay việc nghiên cứu ứng dụng giải pháp pin tích trữ không gây hại môi trường; cần tiếp tục làm rõ 2 vấn đề then chốt, đảm bảo tính khả thi khi thực hiện là: (1) Bố trí nguồn vốn và định hướng cơ bản phân kỳ vốn đầu tư thực hiện Quy hoạch (2) Lộ trình tiến tới thị trường điện cạnh tranh.
“Vấn đề còn lại là cần có sự quyết tâm chính trị, hỗ trợ chính sách trong việc khắc phục các hạn chế cho quá tải. Hạn chế này các nước trên thế giới cũng phải đối mặt, không chỉ riêng Việt Nam. Đây vẫn là con đường phải đi”. Bà Ngụy Thị Khanh còn cho rằng, thay vì hỗ trợ giá FIT thì tìm giải pháp công nghệ, đặc biệt các giải pháp năng lượng kết hợp, phân tán tại chỗ.
Nhiều đại biểu cũng lựa chọn cần có chính sách khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân tham gia vào lĩnh vực NLTT. Lý do là Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển các nguồn NLTT bên cạnh nguồn năng lượng truyền thống, có khu vực kinh tế tư nhân năng động, bắt kịp công nghệ cũng như động lực phát triển kinh tế doanh nghiệp.
Khẳng định phát triển điện năng cho nền kinh tế cần hướng đến an toàn tương lại chứ không phải chỉ an toàn trước mắt. Ông Nguyễn Quang Huân cho rằng, Dự thảo Quy hoạch điện VIII rồi đây cũng sẽ được Chính phủ xem xét cân nhắc. Giữa mong muốn của người dân, doanh nghiệp cũng còn liên quan đến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Khi thấy có hạn chế trong quy hoạch thì chúng ta nên cùng nhau tháo gỡ, cùng nhau đưa ra giải pháp. Hiện muốn nâng công suất tải, muốn khuyến khích tư nhân tham gia vào sản xuất cung cấp các nguồn điện,… nhưng Luật Điện lực chưa bắt kịp Nghị quyết 55-NQ/TW, nên chăng cần sửa đổi Luật Điện lực.
PGS.TS. Lê Anh Tuấn khẳng định, cần cho tư nhân hóa tham gia vào đường truyền tải điện, sáng tạo trong ứng dụng công nghệ tạo nên nền kinh tế năng động, thuận thiên.
Khá đồng nhất với các kiến nghị giải pháp của VSEA nhằm tạo cơ hội cho NLTT phát triển, TS. Nguyễn Đức Tuyên còn bổ sung việc cần chia vùng phụ tải rõ ràng; phải có dự báo nguồn cho sản xuất các loại năng lượng; cần tìm các giải pháp gấp rút như tăng cường xây dựng lưới để đáp ứng phụ tải; phát triển đường điện phân tán thực sự đúng với thị trường điện cạnh tranh, đồng thời tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại trong và ngoài nước.
Cuối cùng VSEA cho rằng việc từ chối tiếp nhận, để xuất dừng dự án hoặc chuyển đổi nhiên liệu của một loạt địa phương trong thời gian qua như Thừa Thiên Huế, Bạc Liêu, Long An, Tiền Giang, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hải Phòng, Quảng Ninh đã cho thấy rõ sự không ủng hộ điện than. Ưu tiên phát triển mạnh năng lượng tái tạo, không phát triển thêm điện than mới là nguyện vọng của người dân và chính quyền ở nhiều địa phương.
Minh Phúc