Giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, ngành logistics Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, giữ chuỗi cung ứng cho sản xuất, kinh doanh luôn ổn định. Để phát huy vị thế khi nền kinh tế dần phục hồi sau dịch, bên cạnh những nội lực nội tại, ngành logistics Việt Nam cũng cần được hỗ trợ nhiều mặt để phát triển và tự tin cất cánh trong tương lai.
• Xuất nhập khẩu đón nhiều tín hiệu khả quan khi nối lại các chuỗi cung ứng
• Lợi ích kinh doanh khi duy trì tính bền vững của chuỗi cung ứng và hậu cần
Thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam sau đại dịch Covid-19
Phát biểu tại chuyên đề “Khôi phục chuỗi cung ứng, phát triển logistics sau đại dịch” (diễn ra ngày 14/12/2021), ông Lê Quang Trung, Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Hàng Hải Việt Nam có đưa ra những thực trạng, khó khăn lớn nhất các doanh nghiệp logistics đang gặp phải đó chính là đối phó với sự gián đoạn trong chuỗi cung cấp dịch vụ để duy trì hoạt động liên tục và sự tăng phi mã của cước vận tải biển cũng như sự thiếu hụt, mất cân bằng container trên toàn thế giới. Vấn đề tổ chức sản xuất, bố trí nhân lực làm việc phù hợp mà vẫn phải đảm bảo an toàn, các quy định về phòng chống dịch như 5K hay thực hiện 3 tại chỗ,…
Cũng theo ông Trung, doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam hiện có hơn 10 loại phí phải chịu đối với một container hàng xuất như: phí chứng từ, phí xếp dỡ, vệ sinh, khai trọng tải,… Ông Trung đưa ra ví dụ, nếu tầm này năm ngoái, giá cước container bằng đường biển sang Mỹ chỉ khoảng 3.500 – 4.000 USD/container thì năm nay vẫn cung đường ấy giá cước đã lên 15.000 – 18.000 USD/container.
Không chỉ vậy, giá vận chuyển container trên một số tuyến chính đều tăng trên 100%, có nơi trên 200%. Trong khi đó, có đến 80% hàng hóa trên thế giới vận chuyển bằng đường biển. Điều này tác động mạnh mẽ đến hoạt động xuất nhập khẩu của các công ty.
Ông Thân Đức Việt, Tổng giám đốc Công ty May 10 cũng cho biết, nguồn nguyên phụ liệu cho sản xuất của các công ty may, trong đó có May 10 đang phải nhập khẩu phần lớn từ Trung Quốc. Năm 2020, khi dịch Covid-19 mới bùng phát, các nhà sản xuất nguyên phụ liệu của Trung Quốc phải tạm dừng hoạt động nên công ty không có nguyên liệu để sản xuất.
Năm 2021, thị trường Trung Quốc khôi phục trở lại thì lại không có container để các nhà cung cấp xuất khẩu nguyên phụ liệu, khi có container thì không có tàu, khi có tàu thì phải mất nhiều thời gian mới nhận được hàng. Không chỉ đầu nhập khẩu nguyên phụ liệu để sản xuất, mà sau khi sản xuất ra, việc xuất khẩu giao hàng cho đối tác cũng bị chậm tiến độ từ sáu tuần đến một tháng, gây ra thiệt hại nặng nề, ông Thân Đức Việt chia sẻ.
Theo thống kê của Hiệp hội DN dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), có khoảng 15% DN bị giảm 50% doanh thu so với năm 2020 và hơn 50% DN giảm số lượng dịch vụ logistics trong nước và quốc tế từ 10% – 30% so với cùng kỳ năm 2020.
Còn theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), từ tháng 11/2020, hầu hết các hãng tàu thông báo tăng giá cước vận chuyển hàng container, với mức tăng từ 2-10 lần (tùy theo chặng). Cùng với những bất cập về giá cước, phụ phí hãng tàu nước ngoài đang thu cũng trở thành gánh nặng đối với chủ hàng Việt Nam.
5 nhiệm vụ để ngành logistics phát triển nhanh
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, quá trình dịch chuyển, tái cơ cấu các chuỗi cung ứng quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, ngành logistics Việt Nam được đánh giá là ngành kinh tế tiềm năng, có vai trò quan trọng, mang tính nền tảng trong nền kinh tế quốc dân và đứng trước những cơ hội lớn để bứt phá vươn lên, nhất là sau khi đại dịch Covid-19 được kiểm soát, các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại quốc tế phục hồi, tăng trưởng trở lại.
Để khôi phục nền logistics, theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, chúng ta cần chú ý những vấn đề sau:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác thể chế, nhất là việc thể chế hóa kịp thời các quan điểm, đường lối của Đảng về kinh tế đối ngoại để hoàn thiện các cơ chế chính sách và quy định pháp luật về logistics,…
Thứ hai, đẩy mạnh chuyển đổi số và tăng cường ứng dụng những thành tựu của Cuộc cách mạng Công nghệ lần thứ tư trong lĩnh vực logistics nhằm thúc đẩy tự động hóa tối đa các quy trình hoạt động, giúp hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu suất và cải thiện đáng kể hiệu quả hoạt động của chuỗi cung ứng trong điều kiện nhân lực hạn chế và thị trường có nhiều biến động.
Thứ ba, triển khai các giải pháp nhằm phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, cảng biển, kho bãi; kết nối các phương thức vận tải; xúc tiến thành lập các khu thương mại tự do, tạo điều kiện cho các địa phương có lợi thế phát triển thành các trung tâm dịch vụ logistics lớn,…
Thứ tư, tập trung phát triển nguồn nhân lực logistics, nhất là nhân lực chất lượng cao, chuyên nghiệp theo các chuẩn mực quốc gia, khu vực và thế giới, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ năm, tập trung triển khai thực hiện đồng bộ và hiệu quả các giải pháp về giảm chi phí, nâng cao hiệu quả logistics đã được đề ra tại các Quyết định 200/QĐ-TTg và Quyết định 221/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động logistics theo hướng giảm thiểu thủ tục kiểm tra tại khâu nhập khẩu, tăng cường hậu kiểm và minh bạch trong vấn đề thủ tục hải quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho ngành logistics Việt Nam phát triển.
Nhật Khang