Dưới tác động của dịch bệnh, sự cạnh tranh từ các công ty fintech và bigtech ngày càng tăng đang thúc đẩy quá trình số hóa các ngân hàng. Điều này làm tăng tính sẵn có của các dịch vụ tài chính, đồng thời làm tăng mức độ tập trung của hệ thống ngân hàng- theo chuyên gia kinh tế của IMF kết luận.
Đại dịch Covid 19 đã thúc đẩy việc áp dụng công nghệ kỹ thuật số trong mọi lĩnh vực, bao gồm cả ngân hàng. Để cạnh tranh với các công ty fintech, những công ty cung cấp dịch vụ ngân hàng truyền thống giá rẻ, các ngân hàng đều đang ưu tiên tăng tốc chuyển đổi kỹ thuật số – theo một cuộc khảo sát năm 2020 với 200 giám đốc điều hành ngân hàng hàng đầu của Deloitte.
Theo kết quả nghiên cứu, tác động của sự ra đời công nghệ mới trong lĩnh vực tài chính có sự mâu thuẫn với nhau. Ví dụ, theo ước tính của Citi Group, số hóa có thể giảm 30-50% chi phí hoạt động của các ngân hàng do giảm số lượng chi nhánh và nhân viên, nhưng đồng thời do cạnh tranh gia tăng sẽ làm giảm thu nhập của họ từ 10-30%. Một nghiên cứu của Accenture được công bố vào năm 2019 dựa trên dữ liệu từ hơn 160 ngân hàng bán lẻ ở 20 quốc gia đã cho thấy, các ngân hàng tiên tiến về số hóa trong giai đoạn 2011-2017, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân tăng 0,9%. Ngược lại, đối với các ngân hàng số hóa ít, chỉ số này trung bình sẽ giảm xuống 1,1%.
Nhà nghiên cứu Liu cho biết: “Không phải tất cả họ đều có thể trải nghiệm những lợi ích mà số hóa mang lại. Chuyển đổi kỹ thuật số liên quan đến một lượng đầu tư đáng kể mà các ngân hàng nhỏ không có khả năng chi trả. Vậy nên quá trình số hóa có khả năng tiến triển chậm hơn ở các khu vực ngân hàng có cơ sở khách hàng nhỏ, đồng thời trong quá trình cải tiến công nghệ, họ có thể bị các đối thủ cạnh tranh bỏ xa. Do đó, số hóa có thể dẫn đến việc gia tăng thị phần của các ngân hàng lớn bằng cách loại bỏ những người chơi nhỏ hơn khỏi thị trường”.
Tác động của số hóa đối với khách hàng ngân hàng hiện nay vẫn chưa thực sự rõ ràng. Một mặt, nó làm tăng tính khả dụng của các dịch vụ tài chính cho người tiêu dùng, ví dụ như tại các khu vực có hệ thống tài chính, ngân hàng phát triển cao như châu Âu, số hóa sẽ làm giảm chi phí và giúp nâng cao hiệu quả dịch vụ. Mặt khác, số hóa càng làm phức tạp thêm việc tiếp cận các dịch vụ tài chính tới những người tiêu dùng kém tiên tiến hơn, làm gia tăng khoảng cách số hóa. Tương tự như vậy, các quốc gia tụt hậu trong công nghệ kỹ thuật số sẽ kém bền vững hơn về mặt tài chính so với các quốc gia khác.
Trong công trình của mình, nhà nghiên cứu Liu đã so sánh mức độ số hóa của ngân hàng ở các quốc gia khác nhau. Đây là nghiên cứu thực nghiệm đầu tiên về quá trình chuyển đổi kỹ thuật số của các ngân hàng ở cấp độ toàn cầu. Là một biến số để so sánh giữa các quốc gia về mức độ số hóa ngân hàng, bà đã chọn Global Findex của Ngân hàng Thế giới. Nghiên cứu này được tính toán cho hơn 140 nền kinh tế dựa trên dữ liệu về tỷ trọng dân số trên 15 tuổi tại các quốc gia đã sử dụng quyền truy cập kỹ thuật số (sử dụng thiết bị di động hoặc máy tính) vào tài khoản ngân hàng. Chỉ số này được tính toán ba năm một lần, với dữ liệu mới nhất năm 2017.
So sánh mức độ số hóa của ngân hàng ở các quốc gia khác nhau cho thấy, số hóa được sử dụng rộng rãi hơn ở các nước có thu nhập cao, chủ yếu ở Bắc Mỹ, Tây Âu và Bắc Âu. Top 10 quốc gia có mức độ số hóa ngân hàng cao nhất bao gồm Na Uy, Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Điển, Hà Lan, New Zealand, Mỹ, Estonia, Hàn Quốc và Canada. Ở những quốc gia này, tỷ lệ khách hàng sử dụng điện thoại di động hoặc Internet để truy cập vào tài khoản của họ là 70–85%.
Tác giả tin rằng sự khác biệt đáng kể về mức độ số hóa ngân hàng giữa các nước châu Âu có thể liên quan đến sự chênh lệch về mức thu nhập. Do đó, các quốc gia giàu có như Đức, Bỉ, Pháp hay Thụy Sĩ đều nằm trong số các ngân hàng tiên tiến nhất về số hóa, trong khi Bulgaria và Albania lại chỉ đứng vị trí thứ 100 và 123 trong danh sách.
Tuy nhiên, ở một số quốc gia có mức độ sử dụng dịch vụ số hóa ngân hàng thấp hơn lại đang phát triển nhanh hơn. Ví dụ, các quốc gia thuộc khu vực châu Phi cận Sahara là quốc gia tiên tiến nhất trên thế giới về tốc độ phát triển của các dịch vụ tài chính di động, trong khi ở Kenya, chỉ một phần bảy dân số có tài khoản ngân hàng. Điển hình là Trung Quốc – quốc gia dẫn đầu về thanh toán di động cũng không phải là nước có tỷ lệ sử dụng ngân hàng số cao nhất: các dịch vụ tài chính kỹ thuật số ở nước này chủ yếu được cung cấp bởi các công ty bigtech (ví dụ như Alibaba và Tencent).
Nếu bạn nhìn vào việc sử dụng thiết bị di động trên toàn cầu để thanh toán hóa đơn tiện ích, bất kể dịch vụ đó được cung cấp bởi ngân hàng hay tổ chức tài chính phi ngân hàng thì Trung Quốc và các nước châu Phi lại là một trong những nước tiên tiến nhất về số hóa, trong khi các nước châu Âu (ngoại trừ Scandinavian) lại đang bị tụt hậu.
Ngoài việc phân tích chi phí, lợi ích tiêu chuẩn để các ngân hàng quyết định số hóa cơ sở hạ tầng và dịch vụ của mình còn có các yếu tố quan trọng khác. Ba yếu tố chính trong số đó được liệt kê là: hệ sinh thái kỹ thuật số, môi trường kinh doanh và sự phát triển của lĩnh vực tài chính nói chung.
Hệ sinh thái kỹ thuật số bao gồm cơ sở hạ tầng kỹ thuật số: mức độ phổ biến của công nghệ và tỷ lệ áp dụng chúng trong xã hội; các yếu tố nhân khẩu học và kinh tế xã hội (ví dụ: tuổi tác có thể ảnh hưởng đến nhận thức sử dụng công nghệ và mức độ hiểu biết kỹ thuật số có tương quan thuận với mức thu nhập).
Môi trường kinh doanh được quyết định bởi mức độ cạnh tranh, bảo vệ quyền sở hữu và tính linh hoạt của thị trường lao động. Tất cả đều quan trọng đối với việc thu hút đầu tư. Theo nghiên cứu cho thấy, hệ sinh thái kỹ thuật số tiên tiến, môi trường kinh doanh thuận lợi và hệ thống pháp luật đáng tin cậy có tương quan thuận với mức độ phát triển của ngân hàng số, cũng như mức độ sử dụng Internet, mức độ hiểu biết kỹ thuật số và chi tiêu cho R&D (Research and Development) .
Chuyên gia kinh tế của IMF kết luận rằng: “Sự phát triển của ngành tài chính nói chung có thể ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi kỹ thuật số của các ngân hàng, nhưng tác động của yếu tố này vẫn chưa được xác định đầy đủ. Một hệ thống ngân hàng phát triển áp dụng thành công công nghệ mới có thể duy trì vị thế dẫn đầu. Ngoài ra, sự phát triển nhanh chóng của các tổ chức tài chính phi ngân hàng và sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các tổ chức này đã góp phần thúc đẩy các ngân hàng ưu tiên sử dụng các công nghệ mới”.
Việc áp dụng chuyển đổi kỹ thuật số vào đặc điểm của các ngân hàng bán lẻ (quy mô, lợi nhuận, vốn, mô hình kinh doanh) có thể quan trọng. Nhưng đối với các ngân hàng có lợi nhuận cao, số hóa như một phương tiện tăng lợi nhuận lại ít được quan tâm hơn: do tỷ suất sinh lợi cao trên tài sản và vốn có tương quan nghịch với mức độ số hóa. Vậy nên đối với các ngân hàng có lãi, việc chuyển đổi sang công nghệ kỹ thuật số để duy trì khả năng cạnh tranh là không đáng kể.
Phương Vũ (Theo:econs.online)