“Việt Nam sẽ trở thành trung tâm của điện gió ngoài khơi trong tương lai. Đây cũng là nguồn điện giảm thiểu carbon nhiều nhất, có thể thay thế các nguồn điện than dự kiến cắt giảm tới đây để giúp Việt Nam đạt mục tiêu giảm phát thải ròng về 0 vào 2050 theo cam kết tại COP 26”, bà Liming Qiao, Giám đốc khu vực châu Á (Hội đồng Điện gió toàn cầu, GWEC) nói tại diễn đàn Điện gió Việt Nam 2021, ngày 1/12.
Theo bà Liming, kinh nghiệm của các nước trên thế giới phát triển loại năng lượng này cho thấy, điện gió ngoài khơi giúp giảm 20% lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu. Với Việt Nam, nhờ nguồn gió mạnh, các dự án điện gió ngoài khơi có thể đạt công suất lớn hơn 50%, tương đương hệ số công suất của thuỷ điện.
Loại hình năng lượng này còn có khả năng chạy phụ tải nền, có tính đoán định cao hơn so với các nguồn năng lượng tái tạo biến đổi sạch khác, đồng thời hỗ trợ an ninh năng lượng. Các tính toán kỹ thuật cho thấy, Việt Nam có tiềm năng điện gió ngoài khơi khoảng 160 GW. Trong phương án tính toán mới nhất cập nhật tháng 11 của dự thảo quy hoạch điện VIII, Bộ Công Thương đã nâng công suất nguồn đặt điện gió ngoài khơi (offshore) lên 4 GW vào năm 2030, tăng 1 GW so với các phương án công bố trước đó.
Công suất nguồn đặt điện gió ngoài khơi sẽ tăng lên 10 GW vào năm 2035, lên 23 GW vào 2040 và đạt 36 GW vào 2045. Với mức công suất này, tỷ trọng điện gió ngoài khơi trong hệ thống điện khoảng 2,6% vào năm 2030 và tăng lên gấp hơn 4 lần (10,8%) vào năm 2045.
Rất nhiều rào cản, thách thức cho điện gió ngoài khơi
Dự thảo quy hoạch điện VIII đã nâng công suất đặt điện gió ngoài khơi đến 2030 lên 4 GW, nhưng các nhà đầu tư vẫn chờ đợi một cơ chế rõ ràng, chắc chắn hơn, cũng như sự nhất quán các khuôn khổ pháp lý để vững tâm hơn trong các quyết định đầu tư ở Việt Nam.
Ông Niels Holst, đại diện Copenhagen Infrastructure Partners (CIP), đơn vị quản lý dự án điện gió ngoài khơi La Gàn, nhắc tới các thách thức tài chính khi phát triển dự án điện gió ngoài khơi cũng như sự thấp thỏm chờ đợi chính sách. Đó là chưa kể những rủi ro từ việc cắt giảm công suất ảnh hưởng tới bài toán huy động vốn của dự án trong bối cảnh năng lượng tái tạo bị cắt giảm nhiều thời gian qua.
Khả năng vay vốn của các hợp đồng mua bán điện theo ông cũng rất quan trọng. Việt Nam đã hết cơ chế giá FIT nên nếu vay vốn ngân hàng để đầu tư vào các dự án với giá trị lên tới cả tỷ USD như điện gió ngoài khơi sẽ phải cân đối nhiều yếu tố.
Vì thế, điều các nhà đầu tư mong mỏi là một cơ chế ổn định lâu dài cho điện gió ngoài khơi, chẳng hạn thủ tục xin cấp các giấy phép thực hiện khảo sát ngoài khơi, lộ trình để có được giấy phép đầu tư hay cách nào để có hợp đồng mua bán điện (PPA),…
Ngoài yếu tố vốn, công nghệ, ông Bùi Văn Thịnh, CEO Thuận Bình Wind, cho rằng các yếu tố liên quan tới an ninh quốc phòng khi triển khai dự án điện gió ngoài khơi cũng khiến nhà đầu tư băn khoăn. Ông đề xuất, cơ quan quản lý khảo sát thực địa, tham khảo kinh nghiệm thực tế phát triển điện gió ngoài khơi ở Đài Loan để “giải toả các lo lắng về an ninh quốc phòng, có chính sách cho điện gió ngoài khơi”.
Các nhà đầu tư đề xuất cần có giai đoạn chuyển tiếp trên cơ sở giá FIT, trước khi chuyển sang cơ chế đấu thầu. “Cơ chế hỗ trợ giá FIT trong giai đoạn đầu là rất quan trọng để giảm thiểu rủi ro và giúp các nhà đầu tư tự tin hơn với chi phí đầu tư khổng lồ của các dự án điện gió ngoài khơi tại một thị trường hoàn toàn mới. Khi đã có dự án được xây dựng, vận hành thì cùng với công nghệ, giá đầu tư sẽ rẻ đi”, ông Micheal Stephenson, Phó giám đốc RCG nhận xét.
Bà Liming Qiao cũng đổng quan điểm, với những thị trường mới như Việt Nam, điều quan trọng là những dự án đầu tiên phải được phát triển và đưa vào vận hành thành công. Điều này sẽ tạo tiền đề cho sự phát triển tiếp theo của ngành này trong nước, khi nhà đầu tư có thêm tự tin và chuỗi cung ứng trong nước cũng phát triển qua các dự án đầu tiên này.
Phương An