| Luật Công nghiệp công nghệ số: Động lực phát triển kinh tế số và đột phá công nghệ cho Việt Nam Cần thiết ban hành Luật Công nghiệp công nghệ số nhằm thể chế hóa Nghị quyết 57-NQ/TW |
Quy định liên quan tới đào tạo chính quy
![]() |
| Sinh viên Trường ĐH FPT học trong phòng lab (Ảnh: FPT). |
Luật Công nghiệp công nghệ số xác định phát triển nguồn nhân lực là một trong những chính sách trọng tâm để thúc đẩy công nghiệp công nghệ số, mở đường cho các cơ sở đào tạo đổi mới chương trình, chuẩn đầu ra và kỹ năng đào tạo sát thực tế hơn.
Điều 4 quy định phát triển nhân lực là một trong các chính sách trọng tâm nhằm thúc đẩy công nghiệp công nghệ số, trong đó Nhà nước đầu tư cho cơ sở đào tạo và có cơ chế ưu đãi thu hút, trọng dụng nhân tài công nghệ số. Điều này thúc đẩy trường học đổi mới chương trình giảng dạy, mở ngành gắn với trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), công nghiệp bán dẫn và hạ tầng công nghệ số.
Điều 5 quy định Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong quản lý nhà nước về công nghiệp công nghệ số, đồng thời phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp trong công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực. Khi các nghị định, thông tư được ban hành, các trường sẽ phải điều chỉnh chương trình, kỹ năng đào tạo và cơ chế kiểm định chất lượng.
Đáng chú ý, Điều 34 và Điều 35 của Luật quy định việc xây dựng Hệ thống thông tin và Cơ sở dữ liệu công nghiệp công nghệ số, bao gồm thông tin về doanh nghiệp, nhân lực, sản phẩm - dịch vụ, khu công nghệ số tập trung, kết quả nghiên cứu và các dự án đầu tư công nghệ số.
Khi hệ thống dữ liệu này được vận hành và cập nhật đồng bộ bởi các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cơ sở nghiên cứu - đào tạo, nguồn thông tin về nhân lực và thị trường việc làm sẽ trở nên minh bạch hơn, giúp sinh viên dễ dàng nắm bắt xu hướng kỹ năng và cơ hội nghề nghiệp trong lĩnh vực công nghệ số.
Ngoài ra, Điều 7 của Luật quy định việc áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong hoạt động công nghiệp công nghệ số và khuyến khích sử dụng chuẩn quốc tế.
Khi các chuẩn này được phổ biến rộng rãi trong nghiên cứu, sản xuất và dịch vụ công nghệ số, các cơ sở đào tạo có thể tham khảo, tích hợp vào chương trình giảng dạy, giúp sinh viên tiếp cận sớm các chuẩn nghề nghiệp quốc tế, từ ISO/IEC 27001 về an toàn thông tin đến các tiêu chuẩn thiết kế - kiểm thử trong lĩnh vực bán dẫn.
Chính sách học bổng, khuyến khích
Luật tạo cơ sở pháp lý để các bộ, ngành và địa phương ban hành chính sách ưu đãi, hỗ trợ đào tạo và phát triển nhân lực công nghệ số, trong đó có thể bao gồm học bổng, hỗ trợ học phí hoặc đặt hàng đào tạo. Trên cơ sở Điều 4, những chính sách này có thể được cụ thể hóa thành chương trình học bổng, hỗ trợ học phí hay gói đặt hàng đào tạo cho sinh viên CNTT và công nghệ số.
Các quy định tại Điều 9 và Điều 11 mở đường cho việc huy động nguồn lực từ ngân sách, doanh nghiệp và xã hội để phát triển và đào tạo nhân lực công nghệ số. Kinh phí có thể đến từ ngân sách, quỹ phát triển khoa học công nghệ của doanh nghiệp, hoặc nguồn tài trợ quốc tế. Điều này mở ra triển vọng về nhiều hỗ trợ học tập mới, đặc biệt trong các lĩnh vực ưu tiên như AI, bán dẫn, an ninh mạng và dữ liệu lớn.
Bên cạnh đó, các ưu đãi về đất đai, tín dụng, thuế dành cho hoạt động nghiên cứu và phát triển sẽ khuyến khích trường - doanh nghiệp hợp tác xây dựng phòng lab, trung tâm thực hành. Nhờ vậy, sinh viên có thêm cơ hội tiếp cận hạ tầng đào tạo tiên tiến ngay tại trường.
![]() |
| Ảnh minh họa |
Kỳ vọng nghề nghiệp
Với sinh viên CNTT, thị trường lao động sau Luật hứa hẹn minh bạch và định hướng rõ hơn. Khi cơ sở dữ liệu công nghiệp công nghệ số được vận hành, dự báo việc làm và kỹ năng sẽ được cập nhật thường xuyên, giúp giảm tình trạng “cung - cầu lệch pha”.
Về chuyên môn, Luật xác định rõ các định hướng ưu tiên trong phát triển công nghiệp công nghệ số, bao gồm dữ liệu số, trí tuệ nhân tạo và công nghiệp bán dẫn - những lĩnh vực có vai trò nền tảng trong đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Từ đó, nhu cầu tuyển dụng nhân lực công nghệ cao được mở rộng, không chỉ với lập trình viên mà còn với kỹ sư dữ liệu, chuyên gia bảo mật, kỹ sư thiết kế vi mạch và chuyên gia vận hành hệ thống cloud.
Điều 10 nhấn mạnh nghĩa vụ tuân thủ pháp luật về an toàn thông tin, an ninh mạng và bảo vệ dữ liệu theo quy định pháp luật có liên quan, kéo theo nhu cầu nhân lực lớn trong các vị trí bảo mật và tuân thủ (compliance). Các nghề mới như kỹ sư DevSecOps, chuyên viên quản trị rủi ro công nghệ hay chuyên gia pháp chế số sẽ ngày càng phổ biến.
Bên cạnh đó, việc khuyến khích áp dụng tiêu chuẩn quốc tế đồng nghĩa sinh viên sẽ phải chuẩn bị thêm chứng chỉ nghề nghiệp quốc tế: từ AWS, Azure, Google Cloud trong điện toán đám mây đến ISO/IEC 27001 trong bảo mật. Đây sẽ là lợi thế cạnh tranh quan trọng trên thị trường lao động toàn cầu.
Kết luận
Luật Công nghiệp công nghệ số mở ra khung pháp lý toàn diện, trực tiếp định hình hành trình học tập và nghề nghiệp của sinh viên CNTT. Từ đổi mới chương trình đào tạo, cơ chế học bổng đến minh bạch thị trường việc làm, tất cả đều tạo ra môi trường học tập - làm việc gắn với thực tiễn và chuẩn quốc tế.
Sinh viên CNTT có thể kỳ vọng nhiều hơn vào cơ hội học bổng, được đào tạo với hạ tầng tiên tiến, tiếp cận thông tin minh bạch về nhu cầu lao động và có thêm lựa chọn nghề nghiệp mới. Điều quan trọng là các trường, doanh nghiệp và cơ quan quản lý cùng triển khai đồng bộ để biến khung pháp lý thành kết quả cụ thể, góp phần đưa Việt Nam trở thành trung tâm công nghệ số của khu vực. Đây là minh chứng rõ nét cho cách Luật Công nghiệp công nghệ số đi vào đời sống thông qua giáo dục - nơi hình thành lớp nhân lực công nghệ số của tương lai.
Tài liệu tham khảo
[1] Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2025), Luật Công nghiệp công nghệ số, số 71/2025/QH15.
[2] Bộ Chính trị (2024), Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 10/4/2024 về phát triển công nghiệp công nghệ số Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
[3] Thủ tướng Chính phủ (2024), Quyết định số 1132/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược hạ tầng số.
[4] Bộ Thông tin và Truyền thông (2024), Báo cáo chuyển đổi số quốc gia tháng 8/2024.