Sáng ngày 7/6, tiếp tục Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (Bộ KH&CN) Huỳnh Thành Đạt trả lời chất vấn về việc bố trí, quản lý, sử dụng ngân sách Nhà nước chi cho nghiên cứu khoa học. Hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học ra thị trường của các đơn vị nghiên cứu. Cơ chế, chính sách khuyến khích tư nhân đầu tư nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ.
Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt, các vấn đề Quốc hội đặt ra đều là các vấn đề căn cốt trọng tâm của ngành KHCN, đây là cơ hội quý báu để Bộ KHCN rà soát, triển khai các chỉ đạo của Đảng, Nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được phân công và giải trình với Quốc hội về việc thực thi chính sách pháp luật KHCN trong thời gian qua. Đồng thời đây cũng là cơ hội để Bộ KHCN nắm bắt được các kiến nghị, đề xuất, nguyện vọng của cử tri cả nước thông qua các câu hỏi của các ĐBQH để tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách và định hướng triển khai nhiệm vụ KHCN và ĐMST trong thời gian tới, mà trọng tâm là việc sửa đổi bổ sung các luật thuộc lĩnh vực KHCN đã đăng ký vào chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội khóa XV.
Tập trung thực hiện tốt các chính sách để phát triển KHCN
Bà Trần Thị Hồng Thanh (ĐBQH tỉnh Ninh Bình) cho biết, phát triển thị trường KHCN từ năm 2011 đến nay, bộ máy quản lý Nhà nước về thị trường KHCN đã được kiện toàn từ Trung ương đến địa phương cùng với nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan được ban hành, cụ thể là 4 luật 6 nghị định và 12 thông tư, Chính phủ cũng đã ban hành thị trường phát triển KHCN quốc gia đến năm 2030. Nhưng theo bà Thanh, thị trường KHCN của nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, vậy nguyên nhân vì sao công nghệ Việt Nam vẫn chưa phát triển, sắp tới chúng ta cần tập trung thực hiện giải pháp căn cơ gì?
Trả lời cho câu hỏi này, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho rằng, chính sách và cơ chế pháp luật chúng ta đã có, quan trọng bây giờ chúng ta áp dụng triển khai như thế nào trong thực tiễn. Trong thời gian qua, Bộ KHCN cũng đã chỉ đạo, ban hành những quy định, thông tư để thúc đẩy hoạt động này và đã mang lại những kết quả đáng khích lệ như: Nhiều công nghệ mới tiên tiến được ứng dụng vào triển khai mang lại hiệu quả trong các ngành y tế, viễn thông, xây dựng, giao thông vận tải,…; có một số ngành có sức cạnh quốc tế, tham gia sâu vào chuỗi giá trị sản xuất các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh.
Theo Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt, những kết quả này là sự cố gắng từ các cơ quan, lãnh đạo của Bộ KHCN cũng như trực tiếp từ các doanh nghiệp.
Bên cạnh những thành quả đạt được vẫn tồn tại nhiều hạn chế như: cơ chế chính sách chưa thực sự phát huy và khó tiếp cận được với các doanh nghiệp, các hoạt động kết nối cũng như các dịch vụ hỗ trợ đi kèm cũng chưa hiệu quả. Song song với đó là nguồn lực từ ngân sách, từ doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động này còn khiêm tốn, cơ sở hạ tầng kỹ thuật hạn chế đặc biệt là các công nghệ tiên tiến.
Trong thời gian tới, Bộ trưởng Bộ KHCN sẽ kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để điều chỉnh các cơ chế chính sách và trực tiếp Bộ KHCN sẽ điều chỉnh những quy định cho phù hợp với thực tiễn. Bộ KHCN cũng sẽ thúc đẩy chương trình về tìm kiếm chuyển giao, làm chủ, phát triển công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam. Đây là giải pháp căn cơ nhất, là chương trình của quốc gia mà Chính phủ đã ban hành và Bộ KHCN là đơn vị chịu trách nhiệm triển khai thực hiện.
Khó xác định bao nhiêu đề tài nghiên cứu được ứng dụng thực tiễn
Liên quan đến đề tài nghiên cứu khoa học, ứng dụng vào thực tiễn, ĐBQH tỉnh Cà Mau Lê Thanh Vân có hỏi: trong 5 năm qua số đề tài nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước có bao nhiêu đề tài được đưa vào ứng dụng và trong số đó có bao nhiêu đề tài mang lại kết quả thiết thực?
Bộ trưởng Bộ KHCN Huỳnh Đạt cho rằng, KHCN có nhiều tính đặc thù, bản chất nghiên cứu là tìm những cái mới, có thể thành công hay không thành công, có thể thất bại có thể thành công sớm hoặc thành công muộn. “Bao nhiêu đề tài đã được đưa vào ứng dụng phải nói đó là điều rất là khó xác định” – Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt chia sẻ.
Cũng theo Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt, cái quan trọng ở đây là làm sao chúng ta xác định được cái kết quả đó, trước hết là nó phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội nhưng đồng thời cũng phục vụ cho việc nâng cao năng lực nghiên cứu KH của bản thân các nhà khoa học của đội ngũ nghiên cứu chúng ta. Bên cạnh đó, nó cũng đóng góp vào các uy tín khoa học của các nghiên cứu và các trường đại học. Vừa qua chúng ta thấy các kết quả nghiên cứu rõ ràng là đã góp phần nâng cao bảng xếp hạng cho các trường đại học của chúng ta trong khu vực và quốc tế.
Bộ trưởng cho rằng, các đề tài nghiên cứu có rủi ro và có độ trễ, không phải lúc nào các đề tài nghiên cứu nó cũng có kết quả và cũng có thể chuyển giao công nghệ đưa vào ứng dụng. Bởi công tác chuyển giao thương mại hóa đưa vào ứng dụng không phải là nhiệm vụ chính của các nhà KH mà đó là các đơn vị trung gian, kết nối giữa các trường, các viện, các danh nghiệp.
Hiện nay, Nhà nước cũng tạo những cơ chế chính sách để khuyến khích sao cho ngày càng có nhiều kết quả nghiên cứu KH được chuyển giao từ nhà trường nghiên cứu ra ngoài xã hội, tất nhiên để làm được những điều đó, hiện nay các cơ chế chính sách đang còn nhiều vướng mắc và cần tháo gỡ trong đó cụ thể như NĐ 70 về quản lý và sử dụng ngân sách công, luật sở hữu trí tuệ,…
Cũng theo ông Đạt, lĩnh vực KHCN là ngành đặc thù có rủi ro và độ trễ nên việc thống kê số liệu bao nhiêu đề tài, ứng dụng vào thực tiễn là một điều rất khó. Các đề tài nghiên cứu có thể để đấy nhưng sẽ có giá trị trong nhiều năm sau này. Bởi vì có nhiều đề tài nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu cơ bản theo định hướng ứng dụng, có đề tài nghiên cứu về lĩnh vực khoa học xã hội,… cho nên để có số liệu chính thức sẽ rất khó thực hiện.
Vậy, đâu là điểm “kích nổ” để Việt Nam bứt phá công nghệ đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý nhà nước, phát triển kinh tế và bảo vệ quốc phòng an ninh?
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho rằng, vấn đề bứt phá về công nghệ có nhiều giải pháp mà theo Bộ trưởng, giải pháp quan trọng chính là chúng ta đầu tư cho nghiên cứu KHCN và ĐMST, đầu tư theo nghĩa là về kinh phí, nguồn lực cũng như về cơ chế chính sách để làm sao nhà KH có điều kiện, tâm thế sẵn sàng cống hiến cho KH. Đội ngũ khoa học của chúng ta hiện nay năng lực tốt, nếu chúng ta đầu tư đúng mức, tạo điều kiện thích hợp thì sẽ phát huy được năng lực, nghiên cứu của các nhà khoa học.
Theo ông Lê Thanh Vân, những cái Bộ trưởng nêu ra vẫn chưa cụ thể, rõ ràng, ông Vân cho rằng, điểm “kích nổ” trong chính sách để Việt Nam bứt phá về KHCN chính là “nhân tài”. Chỉ có nhân tài, nhất là nhân tài KHCN mới có thể làm thay đổi diện mạo công nghệ Việt Nam mà thôi. Những ứng dụng trong quản lý, trong phát triển kinh tế đặc biệt trong phòng thủ quốc gia, bảo vệ trật tự an ninh nếu như không có KHCN hiện đại chúng ta sẽ thua xa các nước trước hết là các nước bên cạnh chúng ta. Cho nên cuộc CMCN lần thứ 4 nó làm cho không chỉ thế giới xung quanh ta thay đổi mà bản thân chúng ta cũng phải thay đổi để thích ứng với nó. Ở Việt Nam hiện nay thứ tự ưu tiên trong việc lựa chọn chính sách để kích nổ trong công nghệ đó là nhân tài ở các lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, công nghệ thông tin, blockchain,…
Duyên Nguyễn