Hiện nay, nghiên cứu khoa học (NCKH) đã trở thành nhiệm vụ quan trọng trong công tác đào tạo của các trường đại học. Một trường đại học có uy tín luôn phải xây dựng nền tảng NCKH thực thụ để có thể đóng góp cho xã hội thông qua các công trình khoa học cụ thể. Vì vậy, muốn đẩy mạnh công tác NCKH tại các trường, nhất định phải đẩy mạnh quá trình hình thành, phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh (NNCM).
Tại hội thảo “Xây dựng cơ chế chính sách phát triển công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học” do Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) tổ chức tại trường Đại học Bách Khoa Hà Nội ngày 25/4/2019, Bộ đã cùng các trường đại học đưa ra ý kiến để phát triển NNCM, NCKH đổi mới sáng tạo trong bối cảnh hội nhập và thời kì cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Năm 2019, tinh thần nâng cao phát triển NCKH trong cơ sở giáo dục được nâng cao và có bước phát triển ban đầu khá tốt. Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc cho biết: “Trong những năm qua, NCKH trong các cơ sở giáo dục đại học đã có bước chuyển biến ban đầu tích cực. Minh chứng là so với 5 năm trước, số công bố quốc tế trong các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam đã tăng hơn gấp đôi, góp phần đưa xếp hạng khu vực, quốc tế của các trường tăng lên đáng kể”.
Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, khảo sát từ 142/271 trường đại học, hiện nay trong hệ thống các trường đại học đã hình thành 945 nhóm nghiên cứu (NNC), một trường đại học có trung bình 7 NNC.
Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc cho rằng, để thực hiện được mục tiêu lấy khoa học nuôi khoa học và tăng nguồn thu từ NCKH, nhất thiết phải thay đổi cơ chế chính sách phát triển khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học. Một số hạn chế về NNC, phòng thí nghiệm, khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo hiện nay trong các cơ sở giáo dục đại học cần sự khơi thông, thay đổi về chính sách.
“Việc phát triển khoa học công nghệ đóng góp lớn cho nguồn thu các trường, nếu khơi thông cơ chế chính sách chúng ta sẽ nâng cao thứ hạng giáo dục đại học Việt Nam trên khu vực và thế giới. Hội thảo là cơ hội để chúng ta tập trung trao đổi về cơ chế chính sách để thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ trong trường đại học” – Thứ trưởng khẳng định.
Theo đó, GS. Nguyễn Văn Minh – Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của NNC với các nghiên cứu thực nghiệm. Trong đó, cần xác định rõ những nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển kinh tế, xã hội, nguồn nhân lực của đất nước từng giai đoạn và đặt ra yêu cầu đối với các cơ sở nghiên cứu, đào tạo. GS. Nguyễn Văn Minh cũng cho rằng, cần ưu tiên xây dựng các cơ sở nghiên cứu liên ngành phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, nhất là nông nghiệp, công nghiệp tiêu dùng, thủy sản và công nghệ thông tin. Đồng thời, lấy đó làm nền tảng ban đầu để đầu tư cho các cơ sở nghiên cứu có tính chuyên sâu.
PGS.TS Đỗ Ngọc Mỹ – Hiệu trưởng Trường Đại học Quy Nhơn đưa ra đề xuất, trên cơ sở tham khảo tính hiệu quả của NCKH trong các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc tế và trong nước, cần tổ chức tốt việc xây dựng các bộ tiêu chí đánh giá tính hiệu quả của các NNC trọng điểm trong từng ngành, lĩnh vực. Trên cơ sở các tiêu chí này, các NNC sẽ thực hiện, đánh giá hoạt động của mình, từ đó chọn ưu tiên đầu tư phòng thí nghiệm hoạt động hiệu quả.
Là trưởng nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài thuộc Chương trình Khoa học và Công nghệ (KH&CN) cấp quốc gia giai đoạn 2016 – 2020 “Nghiên cứu phát triển khoa học giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trưởng Ban Đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết: NNC thực hiện khảo sát 216 giảng viên ở 40 trường đại học, viện nghiên cứu trên cả nước, kết quả cho thấy có 58,8% khẳng định đang tham gia các NNC.
Thông qua NNC, chất lượng đào tạo tiến sĩ và chất lượng đội ngũ đã tăng lên từng bước. Kết quả khảo sát ở Đại học Quốc gia Hà Nội cho thấy, 80% các nghiên cứu sinh trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ của trường, nhờ tham gia NNC nên khi bảo vệ luận án tiến sĩ đều đã có công bố quốc tế ISI. 100% các nghiên cứu sinh ở Đại học Quốc gia Hà Nội có công bố quốc tế đều tham gia trong các NNC.
Theo thống kê mới đây nhất của NNC độc lập (Trường Đại học Duy Tân), tính từ 2017 đến thời điểm công bố vào tháng 6/2018, chỉ riêng công bố quốc tế của 30 trường đại học Việt Nam hàng đầu trong danh sách này đã đạt 10.515 bài. Con số này hơn cả giai đoạn 5 năm trước đó (2011 – 2015), khi toàn Việt Nam mới có 10.034 bài. Nếu chỉ tính riêng các công bố quốc tế thuộc Scopus của Việt Nam, trong vòng 10 năm trở lại đây (2009 – 2018) đã tăng gần 5 lần.
“Sự gia tăng của NNC trong các trường đại học tỷ lệ thuận với sự gia tăng số lượng công bố quốc tế. NNC chính là một trong những giải pháp quan trọng nhất để nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả của các hoạt động nghiên cứu, nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ nhân lực KH&CN cũng như nâng cao xếp hạng của trường đại học” – GS. Nguyễn Đình Đức cho hay.
Chỉ ra một số tồn tại, hạn chế chủ yếu của các nhóm nghiên cứu hiện nay ở Việt Nam, GS. Nguyễn Đình Đức cho biết đó là còn thiếu cán bộ khoa học đầu ngành dẫn dắt NNC; số lượng công bố quốc tế của các nhóm nghiên cứu còn khá khiêm tốn; nguồn lực đầu tư cho các NNC còn hạn chế. Ngoài ra, về phía quản lý nhà nước, trường đại học, còn thiếu chính sách cụ thể, đủ mạnh để hỗ trợ, thúc đẩy sự hình thành, phát triển các NNC trong các trường đại học.
GS. Nguyễn Đình Đức đề xuất: “Qua khảo sát thực tiễn hoạt động của các NNC, chúng tôi kiến nghị cần sớm ban hành những chính sách cụ thể, đồng bộ và đủ mạnh để hỗ trợ và thúc đẩy sự hình hành phát triển các NNC trong các trường đại học hiện nay. Các chính sách cần được xây dựng theo hướng quy định tiêu chí để phân loại các NNC; khi ban hành các tiêu chí và xem xét mức đầu tư cho NNC cũng cần quy định phù hợp với từng đối tượng, cấp độ để đảm bảo đầu tư không lãng phí và đem lại hiệu quả cao nhất”.
Thu Trang