Nước vối xưa |
Ảnh minh họa |
Chè hạt
Cùng với nụ vối, người Hà Nội xưa còn uống một thứ nước khác, là chè hạt. Chè hạt là nụ hoa của cây chè phơi khô, mỗi hạt nụ chỉ nhỉnh hơn đầu đũa. Chè hạt cũng được hãm bằng nước sôi trong ấm tích như hãm nước nụ vối. Thông thường, hạt chè được bỏ vào trong một túi vải, buộc túm miệng lại rồi thả trong ấm tích. Đôi khi, để cho chè chóng tan, người ta nghiền dập chè trước khi bỏ vào túi hãm, hoặc dùng chiếc quả đựng chè làm bằng nhôm trông như một quả trứng gà nhỏ có thể mở ra thành hai nửa để cho chè vào và đổ bã ra. Xung quanh quả có nhiều lỗ nhỏ để chè thôi ra ngoài. Vị chè hạt thanh, hơi chát. Nước chè hạt màu nâu sáng hơi hồng hồng. Người Hà Nội xưa, mỗi khi có khách tới thăm nhà thường mời khách uống chè hạt nóng. Chẳng hiểu vì sao bây giờ, thứ nước quen thuộc này lại hiếm gặp trong các gia đình Hà Nội.
Chè tươi
Các nhà thực vật học đã xác minh rằng Việt Nam nằm trong vùng phát sinh ra cây chè của thế giới. Bằng chứng là trên vùng núi cao Hà Giang, hiện vẫn còn nhiều rừng chè cổ thụ mọc tự nhiên, có cây tới vài trăm năm tuổi, gốc ba bốn người ôm không xuể. Ở Việt Nam, cây chè cũng đã được trồng khắp nơi. Thường thì ở vùng trung du, vùng ven đồng bằng quanh Hà Nội như Thạch Thất (Hà Tây), Bắc Ninh (Hà Bắc), Kim Bảng (Hà Nam)..., hầu như nhà nào cũng trồng dăm cây chè để hái lá uống.
Nước chè tươi |
Lối uống chè tươi có lẽ là lối uống cổ xưa nhất, đậm sắc dân tộc nhất ở Việt Nam. Mỗi vùng, miền lại có một kiểu uống chè tươi riêng.
Vùng núi Bá Thước, Thanh Hóa, đồng bào Mường uống chè tươi theo kiểu chọn những lá chè già, có gai, lá giòn xanh bóng, bỏ vào cối giã nát rồi hãm với nước sôi uống nóng.
Một vài nơi ở Hà Tĩnh, người ta hái cả cành chè gồm có ngọn chè và thân chè rồi bỏ vào nấu trong ấm đất. Sáng dậy đi làm đồng, nhiều thợ cày chỉ làm bát nước chè tươi đặc nóng, “ăn” điếu thuốc lào hoặc chỉ một củ khoai lang là no đến trưa.
Người dân Huế thì lại chặt nhỏ cả cành lẫn thân chè, phơi cho khô rồi đun nước uống dần. Từ nước cốt đầu tiên, người ta cứ pha thêm nước lã cho loãng dần và uống tiếp.
Không rõ lối uống chè tươi ở Hà Nội có xuất xứ từ đâu nhưng nước chè tươi là thứ nước uống của riêng một số gia đình và cũng là thức uống bình dân được bán ở bến tàu, bến xe và hàng quán vỉa hè.
Chè tươi trước đây bán đầy trong các chợ Hà Nội. Ta có thể dễ dàng mua hàng rổ chè tươi trong chợ Bắc Qua, chợ Mơ hay chợ Đức Viên ở sau chợ Hôm. Hằng ngày, người ta chở về đây từng bao tải chè tươi. Chè tươi bán trong các chợ này là những lá chè rời chứ không phải cả cành như trong các chợ ở Hà Tĩnh. Ở Hà Nội, mỗi người có cách hãm lá chè theo lối uống riêng của mình. Vì thế, cũng khó có thể nói thế nào là lối hãm đặc trưng của người Hà Nội. Nhưng nhìn chung, lối hãm chè tươi của người Hà Nội thì khác với người Mường ở vùng cao Thanh Hóa, người nông dân ở Hà Tĩnh hay dân thường ở Huế như vừa kể.
Bà nội tôi cũng hay uống chè tươi. Mỗi lần về thăm bà, tôi lại được bà rót cho bát nước chè xanh đặc sánh nóng hổi. Sau khi bà tôi qua đời, hầu như trong nhà tôi, không còn ai uống nước chè tươi nữa.
Khi đã già yếu, bà tôi không muốn ngồi không nhàn rỗi. Các cháu thì đã lên phố ở với bố mẹ cả, nhà trống vắng, cụ cũng buồn nên nghĩ ra một việc làm cho vui mà lại có thêm đồng ra đồng vào. Thế là ông nội tôi thuê đóng cho bà tôi một chiếc chõng nửa tre nửa gỗ để bày bán một vài quả chuối, quả ổi có sẵn trong vườn hoặc do những người buôn hàng ra bán ngoài chợ Mơ bỏ mối. Mùa nào quả ấy. Khi thì mấy buồng chuối tiêu chín, khi thì rổ thị thơm lừng cùng mẹt sấu chín vàng... Trên chõng còn bày dăm lọ ô mai sấu, ô mai khế hay mấy quả trám khô, lọ kẹo bột, kẹo vừng, kẹo dồi hay những chiếc kẹo hình con vịt xinh xinh có vạch đỏ trên thân. Những thứ quà vặt này là để dỗ trẻ con đến mua cho vui nhưng đôi khi có khách hàng thích uống chè tươi với kẹo bột, kẹo vừng cũng mua.
Không chỉ thế, bà tôi còn hãm một chum nước chè tươi để bán cho các bác kéo xe ba gác mỗi khi kéo hàng ra chợ Mơ trở về. Hồi ấy, ở Hà Nội, người ta vẫn còn dùng xe kéo có bánh gỗ để chuyên chở hàng thuê. Mỗi xe chở hàng thường chỉ có một người nắm đôi càng xe đằng trước, quàng chiếc dây thừng chéo vai, và cứ thế đi chân đất trên đường nhựa nóng bỏng, gò lưng đẩy chiếc xe bánh nan gỗ, vành đóng đai sắt không có ổ bi. Xe nào nặng thì có thêm một người đẩy phía sau. Dân kéo xe như vậy được gọi là dân ba gác (từ này có nguồn gốc từ chữ Tây là Bagages). Hồi ấy, dân xích lô ba gác thuộc diện những người cùng khổ mà sau này khi khai thành phần ở Hà Nội, họ thường được xếp loại là "dân nghèo thành thị", được chiếu cố trong nhiều phương diện. Bà tôi đã mở quán nước chè tươi để phục vụ cho các bác xích lô ba gác này.
Với họ, chè tươi là thứ nước giải khát tuyệt vời. Giữa trưa hè sau khi đạp một cuốc xe hay kéo một xe gạo, xe củi, mồ hôi nhễ nhại như tắm, thấm ướt những chiếc áo vá mà được ngồi trên chiếc ghế dài bên chõng của bà tôi, hưởng bóng mát của tán bàng và ngọn gió nồm nam, uống bát nước chè nóng và rít điếu thuốc lào thì còn gì khoan khoái bằng...
Bà tôi ngồi trên chiếc ghế nhỏ không cao mà cũng chẳng thấp. (Về già, lưng bà hơi còng nên ông nội tôi đã đóng riêng chiếc ghế ấy để bà được ngồi thoải mái.) Chiếc ghế được lót đệm bằng mảnh bao tải và có bọc ni lông hẳn hoi. Bà luôn tay rót nước mời khách, rồi phe phẩy chiếc quạt nan quạt cho chị phụ kéo xe mồ hôi nhễ nhại. Có lần nghỉ hè, tôi được bố mẹ cho về ở với ông bà một tuần. Ngoài việc tha hồ trèo cây hái ổi, tôi còn được phụ bà việc vặt, như giúp bà rửa những rổ lá chè tươi để hãm cho khách uống. Lá chè rửa sạch được bà tôi vò nát rồi cho vào chiếc chum sành nhỏ, miệng rộng vừa phải. Để lá chè khỏi theo nước rơi ra ngoài, bà tôi găm chúng bằng những nan tre cài chéo miệng chum. Thoạt đầu, bà tôi đun nồi nước sôi thật già rồi dội vào chum có sẵn chè tươi, chần ít phút lại đổ nước đi. Bà bảo đấy là "làm lông chè" để nước uống đỡ ngái. Sau khi chắt hết nước “làm lông”, bà tôi đổ tiếp nồi nước sôi già vào để hãm. Bà bảo nước phải đun cho thật sôi già và kỵ nhất là nước oi khói. (Hồi ấy bếp toàn đun bằng củi, lá khô hay than chứ làm gì có bếp ga, bếp dầu.) Nước mà bị oi khói thì coi như phải đổ cả mẻ chè đi. Nước được lấy từ bể nước mưa trong sân, dùng quanh năm không hết. Nhà có nước máy nhưng bà tôi bảo hãm chè với nước máy uống nồng, mùi nước máy át cái vị của chè đi. Đổ nước hãm chè xong, nắp chum được đậy kín lại và cả chiếc chum nhỏ được ủ quanh bằng bao tải rồi đặt vừa khít vào một cái thùng gỗ vuông để giữ cho chum nước luôn nóng. Có khách, bà tôi cẩn trọng lấy chiếc gáo dừa nhỏ rót nước nóng vào những chiếc bát sứ thô xếp ngay ngắn trên mặt chõng tre, tự tay bưng mời khách.
Khi thuê người đóng chiếc chõng bán nước, ông tôi còn dặn bác phó mộc đục thêm ở phần gỗ rìa chõng phía khách ngồi một hàng chừng sáu bảy cái lỗ tròn rỗng, đặt vừa khít những chiếc cốc thủy tinh có kiểu dáng như chiếc cốc vại uống bia bây giờ nhưng kích thước thì chỉ nhỉnh hơn nửa chiếc cốc vại. Đây là thứ cốc thủy tinh do các lò thủy tinh quanh Hà Nội tự nấu lại từ các mảnh chai, kính vỡ rồi đổ khuôn theo lối thủ công nên cốc có màu xanh nhạt và đầy bọt, trông khác hẳn loại cốc pha lê trong vắt có viền vàng quanh miệng thường được các gia đình khá giả bày trong tủ kính chủ yếu để trang trí, năm thì mười họa mới đem ra dùng khi có khách sang đến chơi. Đây là một loại cốc riêng, dùng để uống chè tươi của người Hà Nội. Bà tôi còn kiếm đâu một số nắp đậy bằng gỗ úp vừa khít lên miệng những chiếc cốc xếp trong các lỗ quanh bàn. Những chiếc cốc này dùng để uống chè đường. Đường kính trước đây là một loại thực phẩm còn tương đối xa xỉ với người Hà Nội. Thời bao cấp, mỗi viên chức chỉ được mua dăm lạng hằng tháng để cất ăn dè. Nước chè tươi pha đường kính trắng uống nóng hay nguội là một trong những thứ nước giải khát ngon tuyệt. Thuở trước, mỗi khi về thăm bà, cụ thường chiêu đãi tôi một cốc nước chè pha đường, uống vào thật mát ruột, mệt nhọc tiêu tan hết.
Từ khi lối uống chè Tàu được phổ biến ở Hà Nội vào thập kỷ 60, 70, chè tươi đã bị lùi dần khỏi các quán chè của người Hà Nội, thay vào đó là các quán cóc bán chè Thái đậm đặc mà người Hà Nội xưa thường gọi là chè Tàu. Ở những quán này, người ta bán chè kèm thuốc lá và đôi khi cả lạc rang, rượu ngang nữa.
Gần đây, nghe nói chè tươi có nhiều chất bổ lại ngừa được bệnh tật nên một số cụ già ở Hà Nội uống chè tươi trở lại. Sáng sáng đi tập thể dục quanh hồ Hoàn Kiếm, các cụ bà thường ghé qua phố Bảo Khánh tìm mua dăm lạng chè tươi của một chị bán chè từ ngoại ô mang vào bán. Hết giờ tập thể dục sáng thì hàng cũng vừa hết luôn!
Chè Tàu
Thuở trước, chè Tàu là một thứ xa xỉ, người ta bán chè Tàu đựng trong các lọ sứ, lọ thủy tinh màu trắng đục hoặc hộp thiếc. Cũng có loại được bán lẻ từng lạng, gói trong giấy và được buộc bằng một thứ dây đặc biệt làm từ cói, mang từ Trung Quốc sang. Người ít tiền muốn thưởng trà cũng có thể mua lượng trà đủ pha một ấm, đựng trong gói giấy nho nhỏ trông giống như hình củ ấu nhọn đầu, xưa người Hà Nội gọi là “trà củ ấu". Loại trà này ban đầu do người Hoa có cửa hàng ở phố Hàng Ngang, Hàng Đào buôn trà từ Trung Quốc sang bán ở Hà Nội. Vì thế mới có tên là chè Tàu. Khi ấy, có mấy hãng chè nổi tiếng là các hãng: Ninh Thái, Chính Thái...
Chè Tàu là một trong những lễ vật quan trọng trong các đám hỏi của người Hà Nội cùng với trầu cau, mứt hạt sen, bánh xu xê... Sau lễ hỏi, nhà gái thường chia chè ra thành những phần nhỏ, cho vào bao cắt bằng giấy bóng kính đỏ, đem chia cho họ hàng, bạn bè cùng mấy quả cau, dăm viên mứt sen, như món quà nhỏ, mà cũng là cách để thông báo tin vui.
Về tục uống chè, pha chè của người Việt Nam và của người Hà Nội thì đã có quá nhiều người viết, cũng đã có không ít những áng văn bất hủ về văn hóa uống chè Tàu. Ở đây, tôi chỉ hồi nhớ những gì về chè Tàu mà một người Hà Nội như tôi được biết.
Gia đình tôi chỉ là một gia đình viên chức trung bình. Vào thời điểm trước năm 1954, uống chè là một chuyện hãn hữu trong nhà tôi. Thường ngày, mọi người chỉ uống chè hạt, nụ vối hoặc nước lọc thôi. Năm thì mười họa, khi lễ tết mới có dịp uống chè Tàu. Trẻ con thì tuyệt đối không biết chè Tàu là gì cả. Hồi ấy, người ta có câu hát: Bà ơi cho cháu xin xu/ Cháu mua bánh gù cháu gởi về Nam/ Bố cháu đi làm chè Tàu thuốc lá/ Mẹ cháu ở nhà vét lá khoai lang.
Thế nhưng, bố tôi cũng đi làm mà chẳng thấy ông chè Tàu thuốc lá bao giờ. Trong mắt của người Hà Nội xưa thì cờ bạc - rượu chè - trai gái là những biểu hiện của xấu xa, trác táng.
Phải kể thêm rằng chè Tàu người Hà Nội xưa thưởng thức gồm hai loại: chè xanh và chè mạn. Có tài liệu ghi chép rằng chè mạn có xuất xứ từ vùng Mạn Hảo thuộc tỉnh Vân Nam - Trung Quốc. Chè mạn thời trước cũng khác với loại chè Thái có vị chát được uống rất phổ biến hiện nay. Nếu muốn tìm lại thứ chè mạn xưa thì hiện ở Hà Nội chỉ vài người còn giữ lại cách chế biến cũ. Đa phần sản phẩm được chế biến cầu kỳ theo gu của người uống chè sành điệu xưa ở Hà Nội được dành để gửi đi Paris, hay sang Mỹ, nơi vẫn còn một cộng đồng người Hà Nội tuy sống xa tổ quốc nhưng vẫn giữ được khá nguyên vẹn lối uống, lối ăn cổ truyền của đất Kinh kỳ. Lối chế biến chè mạn xưa rất công phu. Chè nguyên liệu phải được thu hái từ vùng núi cao Hà Giang, nơi vẫn còn những rừng chè cổ thụ, nhiều gốc chè lớn đến mức mấy người ôm không xuể. Chè được đóng thành bánh khô, cất trữ hàng năm trời rồi mới đem ra chế biến. Trước khi chế biến, chè được rửa nước, sấy khô với nhiều công đoạn rất phức tạp, sau cùng mới là công đoạn ướp hương sen. Người làm chè sen thường phải thửa sẵn hoa sen từ những đầm sen được chọn cẩn thận và hoa sen phải được thu hái vào sáng sớm tinh mơ rồi đem ngay về lò ướp, sấy chè. Loại chè này có hương vị vô cùng đặc biệt và không bị quá chát hoặc gây mất ngủ như chè Thái được tiêu thụ phổ biến trên thị trường ngày nay.
Vào những năm đầu của thập kỷ 60, trong các cửa hàng giải khát quốc doanh của Hà Nội vốn ít ỏi các mặt hàng uống, khách hàng có thể gọi một ấm trà và cửa hàng sẽ đem phục vụ khách một bộ ấm trà, gói trà nhỏ bọc trong giấy báo hoặc trút sẵn vào ấm, kèm theo là một cái phích nước sôi có vỏ đan bằng tre. Khách uống trà có thể ngồi hàng giờ trong cửa hàng, nhâm nhi chén trà và tha hồ trò chuyện. Lúc ấy, dân số Hà Nội không đông như bây giờ nên cửa hàng cũng chỉ lèo tèo dăm đám khách nhàn rỗi mà thôi.
Chiếc phích nước nóng là một sản vật đặc biệt, rất cần thiết cho người uống trà. Trước năm 1954, phích nước là vật dụng khá đắt tiền, chưa phổ biến lắm trong mọi tầng lớp dân chúng ở Hà Nội. Phích làm bằng thủy tinh, có vỏ sắt và thường cũng không có những loại lớn như phích 1,5 lít, 2 lít sau này. Người ta dùng phích nước nóng chủ yếu là để giữ nước nóng pha sữa bò cho trẻ sơ sinh trong các gia đình khá giả. Sau năm 1954, mới thấy xuất hiện những chiếc phích vỏ tre từ Trung Quốc và kiểu pha trà từ phích nước sôi chứ không phải đun nước quạt lò theo lối cổ cũng thịnh hành ở Hà Nội từ ngày ấy. Sau này, nhà máy bóng đèn phích nước Rạng Đông ở Hà Nội ra đời, cung cấp phích nước cho thị trường. Những chiếc phích này một thời là bạn đồng hành của những người uống trà cũng như những quán cóc bên đường. Tuy Hà Nội đã có nhà máy sản xuất ra phích nước và bóng đèn nhưng suốt thời kỳ chiến tranh và thời kinh tế bao cấp, phích nước nóng và bóng đèn điện vẫn là sản phẩm hiếm, khó mua. Công đoàn cơ quan thỉnh thoảng mới được phân phối vài chiếc, phải bình bầu, ai trúng mới mua được.
Lối uống chè đặc ngày nay rất phổ biến ở Hà Nội (từ nhà đến cơ quan) cũng như ở nông thôn. Đi đường, khát nước, bạn có thể tạt vào một quán cóc liêu xiêu bên vỉa hè rồi ngồi trên chiếc đòn lè tè, gọi một chén chè nóng hổi với một giá rất bình dân. Chè khô được mua về từ Thái Nguyên, Hòa Bình, Lạng Sơn, Mộc Châu, Hà Giang, Tuyên Quang hay nhiều vùng khác. Người Hà Nội quen gọi loại chè này là chè Thái. Chè Thái đã trở thành một trong những thứ nước uống rất phổ biến ở Hà Nội ngày nay.
Trước đây, hồi cuối những năm 50, đầu những năm 60, đa số người Hà Nội còn chưa quen với lối uống chè đặc này. Sau đó, có những nhóm anh chị em cán bộ, bộ đội từ miền Nam tập kết ra Bắc, nhiều người được điều đi các vùng để xây dựng nông trường quốc doanh. Một trong những nông trường quốc doanh gần Hà Nội thời đó là nông trường trồng chè ở Lương Sơn (Hòa Bình). Trong số các cán bộ tập kết, nhiều người vốn có thói quen uống trà rất đặc, sau này, lại tỏa đi làm việc trong các cơ quan ở Hà Nội. Có lẽ từ đấy mà lối uống trà đặc được xâm nhập nhanh chóng vào đời sống ẩm thực của người Hà Nội chăng?
Giáo sư, Tiến sĩ Dân tộc học Diệp Đình Hoa có lần kể với tôi rằng trong một buổi tiếp các đại biểu cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc ở Hà Nội hồi mới giải phóng miền Bắc, Bác Hồ có mời các đại biểu uống trà theo lối trà đậm đặc của nhân dân vùng Bình Định.
Tôi lại được anh Tư Nghiệp, Giám đốc Bảo tàng Đồng Nai và nhạc sĩ Nguyễn Văn Nam, cũng là cán bộ miền Nam ra Bắc tập kết kể lại thuở mới ra học ở Hà Nội, cứ Tết đến, nhớ nhà là cánh Nam Bộ, đặc biệt là dân gốc miền Tây Nam Bộ lại tụ tập uống trà đặc mà họ gọi là trà quạo. (Không hiểu sao quạo lại có nghĩa là đặc.) Anh em rủ nhau: “UTQ đi!” - có nghĩa như một khẩu lệnh rủ nhau đi uống trà quạo. Cũng chẳng hiểu vì sao lối uống trà đặc này lại phổ biến ở miền Tây Nam Bộ trong khi vùng này cũng như nhiều vùng phía Nam hầu như trước đây chưa bao giờ trồng chè cả.
Tôi có dịp được tìm hiểu những nông trường, trang trại trồng chè ở Hà Giang, Thái Nguyên và Bảo Lộc Lâm Đồng, được biết chè sản xuất ra được chế biến theo nhiều lối khác nhau. Có lần ghé quán trà lớn kiêm bảo tàng chè tư nhân của ông chủ Tiến Đạt - là dân Bắc vào Nam mở mang công nghệ chè ở vùng Bảo Lộc, tôi được nhân viên cửa hàng cho biết hiện nay, dân một số vùng ở đồng bằng Nam Bộ ưa uống trà đá pha loãng, không chát xít và ưa loại chè có ướp sen hoặc hoa nhài. Dân miền Trung thì uống chè đặc và chát nhưng mỗi khu vực ở miền Trung lại uống theo một lối khác nhau.
Như vậy, rất có thể kiểu uống trà đặc của người Hà Nội khởi đầu từ những năm cuối của thập kỷ 50 là do chịu ảnh hưởng từ lối uống trà của người miền Trung hay miền Tây Nam Bộ.
Có một điều lý thú khác là trong thời kỳ bao cấp, sau khi tem phiếu xuất hiện, chè Tàu và thuốc lá là những mặt hàng được phân phối theo tem phiếu. Thời ấy, thứ gì mua được bằng tem phiếu thì rất có giá vì nhà nước bán với giá bao cấp rẻ như cho không so với giá mua bên ngoài. Vì thế, nhiều người Hà Nội tuy không biết uống trà, hút thuốc nhưng thấy rẻ cứ mua cho hết tiêu chuẩn.
Cùng với thời mở cửa về kinh tế, nhiều loại chè mới đã xuất hiện và được bán ồ ạt trên thị trường Hà Nội. Bước vào siêu thị, ta có thể thấy hàng chục loại chè nội ngoại với nhiều kiểu nhãn mác khác nhau. Thanh niên ngày nay ưa uống chè đen theo kiểu Âu. Vào quán giải khát, họ gọi cốc chè túi lọc hiệu Lipton, Dilmah hay Ceylon… với nhiều kiểu pha chế.
Hình như kiểu uống trà xanh đặc đang có xu hướng giảm bớt, ít nhất là trong lớp trẻ ở Hà Nội.
Nhiều gia đình ở Hà Nội hiện giờ lại quay về với lối uống chè tươi truyền thống hay uống nụ vối, chè nụ. Sáng sáng, các cụ già dậy sớm đi ra công viên tập thể dục, nhiều cụ không quên mua về một túi chè tươi để hãm uống cả ngày. Chè tươi là lối uống cổ truyền, lâu đời, chè tươi lại giữ được nhiều vitamin và các hợp chất quý khác.
Rõ ràng tập tục uống trà của người Hà Nội cũng đã có nhiều thay đổi theo không gian và thời gian, theo từng thế hệ. Nên chăng cần gìn giữ những lối uống cổ truyền như một di sản văn hóa Hà Nội nhưng theo tôi, cũng không nên chối bỏ các lối uống mới.
Dẫu uống theo kiểu nào thì trà cũng luôn là một thứ đồ uống lành mạnh, có lợi cho sức khoẻ. Chẳng những thế, người Hà Nội ta, dân ta uống trà ta cũng chính là góp phần giúp cho bà con trồng chè ở trung du và miền núi có được một cuộc sống sung túc hơn, tốt đẹp hơn.
Tác giả Vũ Thế Long