Việc đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước là chủ trương xuyên suốt được Việt Nam quan tâm trong thời gian qua. Một trong yêu cầu đặt ra là phải đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Thực tiễn cho thấy, năng lượng phải đi trước để tạo nền tảng hạ tầng thiết yếu cho kinh tế xã hội. Việc xây dựng, sử dụng năng lượng xanh, năng lượng sạch của Viêt Nam phải gắn với cam kết quốc tế về chống biến đổi khí hậu.
• Năng lượng tái tạo tại Việt Nam tăng nhanh nhất khu vực có phải là tín hiệu đáng mừng?
• Dũng cảm để chọn một hệ thống điện mà tỉ lệ nguồn năng lượng sạch lớn hơn
Doanh nghiệp nội địa có nhiều khó khăn trong phát triển năng lượng tái tạo
Dự thảo Quy hoạch điện VIII đã có chủ trương ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo. Trong đó, tỷ lệ điện năng mặt trời chiếm khoảng 5,4-5,9% vào năm 2030, năm 2045 tăng lên đạt tỷ lệ 8,4% trong tổng công suất các nguồn điện. Đối với điện gió trên bờ và gần bờ, năm 2030, tỷ lệ chiếm khoảng 6,5% trong tổng công suất các nguồn điện,…
Thực tế cho thấy việc phát triển năng lượng tái tạo còn nhiều cơ hội và thách thức lớn. Phát biểu tại Hội thảo “Phát triển năng lượng xanh và những năng lượng mới trong tiến trình phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa đến năm 2030 tầm nhìn năm 2045” diễn ra vào chiều ngày 10/11, ông Đỗ Văn Kiên – Phó tổng Giám đốc Tập đoàn Trung Nam nhận định: Các doanh nghiệp Việt Nam đối với thị trường năng lượng tái tạo có những thuận lợi như: Chúng ta nắm bắt và hiểu rõ được điều kiện tự nhiên thổ nhưỡng địa lý của địa phương, các chính sách đặc thù của từng địa phương, tiếp cận nhanh và kịp thời ứng phó. Thị trường năng lượng tái tạo được bạn bè quốc tế đánh giá là thị trường tiềm năng để phát triển mạnh nhất là điện mặt trời, điện gió ngoài khơi. Chúng ta cũng đã có được kinh nghiệm của các dự án năng lượng tái tạo quy mô lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á đã thực hiện. Chúng ta có dịch vụ và nguồn nhân công cạnh tranh, thị trường mở với tiềm năng khai thác rộng lớn.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, ông Đỗ Văn Kiên cũng nêu ra nhiều khó khăn mà các doanh nghiệp tham gia thị trường năng lượng tái tạo gặp phải. Đó là hạn chế về cách thức tiếp cận các chủ trương chính sách, cơ chế pháp lý ràng buộc cả đối với doanh nghiệp Việt hay doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư. Việt Nam còn bị phụ thuộc nhiều vào thiết bị công nghệ của nước ngoài, cách thức tiếp cận vốn bị hạn chế, nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu, sản lượng của nguồn năng lượng tái tạo bị cắt giảm do quá tải hoặc nhu cầu sử dụng điện năng bị cắt giảm. Việc cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam cũng là bài toán khó cho các đơn vị khi thực hiện các dự án năng lượng tái tạo.
Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào các nguồn năng lượng hoá thạch
Cũng trong hội thảo, các phân tích, đánh giá của đại biểu cho thấy, an ninh năng lượng của nước ta chưa thực sự đảm bảo vững chắc, còn phụ thuộc nhiều vào các nguồn năng lượng hoá thạch. Ngoài ra, mô hình phát triển năng lượng với cơ cấu các nguồn năng lượng truyền thống, hoá thạch chiếm tỷ lệ cao đã và đang gây nên những tác động tiêu cực đến môi trường và việc sử dụng năng lượng ở nước ta trong thời gian qua còn nhiều bất cập, chưa hiệu quả, chưa đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững.
Theo dự báo của EVN, với cơ cấu năng lượng tái tạo trong Quy hoạch điện VIII, lượng chất thải điện mặt trời tích lũy năm 2030 là 151.000 tấn, năm 2045 lên tới 1,7 triệu tấn. Dự báo rác thải pin năm 2030 là 27,5 triệu tấn.
Bà Camilla Holbech – Trung tâm năng lượng, điện gió ngoài khơi của Đan mạch cho rằng Việt Nam, cần có những bước chuyển đổi hệ thống năng lượng tái tạo, thành lập xây dựng linh hoạt hệ thống. Các nhiên liệu hóa thạch phải nhường cho năng lượng tái tạo. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần sử dụng công nghệ lưu trữ khi điện gió, ưu tiên đưa năng lượng tái tạo vào lưới. Điện mặt trời dư thừa sẽ xuất vào lưới và xuất khẩu sang các quốc gia khác.
Ủng hộ quan điểm phát triển năng lượng tái tạo, ông Chu Bá Thi – chuyên gia năng lượng cấp cao, Ngân hàng thế giới (World bank) cho rằng Việt Nam là đất nước có tiềm năng và lợi thế về gió ngoài khơi, với khoảng 470 GW. Do đó, chúng ta hoàn toàn có thể xây dựng trung tâm điện gió độc lập, bao gồm toàn bộ chuỗi cung ứng và có khả năng xuất khẩu chuỗi cung ứng này sang các nước bạn. Ngoài ra, Việt Nam đang tiến tới lộ trình phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 theo cam kết COP 26, vì vậy nên chú trọng vào việc phát triển điện gió mgoài khơi.
TS. Nguyễn Đức Hiển – Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương cũng cho biết trong thời gian qua, phát triển năng lượng nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, cung cấp năng lượng, đặc biệt là cung cấp điện cơ bản đáp ứng đủ yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội với chất lượng ngày càng được cải thiện; sản xuất và tiêu thụ năng lượng đã gia tăng đáng kể, cơ cấu tiêu thụ năng lượng chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá.
Tuy nhiên, theo ông Hiển để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp nội địa tham gia vào thị trường phát triển năng lượng tái tạo, cần có cơ chế, chính sách rõ ràng, dài hơi để các doanh nghiệp trong và ngoài nước có chiến lược phát triển cũng như ứng phó, hoạch định, tiếp cận công nghệ thực hiện các dự án năng lượng tái tạo bền vững và hiệu quả.
Phương An
Hội thảo “Phát triển năng lượng xanh và những năng lượng mới trong tiến trình phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa đến năm 2030 tầm nhìn năm 2045” được diễn ra vào chiều ngày 10/11. Hội thảo nằm trong khuôn khổ Diễn đàn cấp cao thường niên lần thứ ba về Công nghiệp 4.0 do Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với Bộ Công thương, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam tổ chức.
Hội thảo ngoài đề cập đến các cơ hội, thách thức cũng bàn luận tới những vấn đề đối với phát triển năng lượng xanh, năng lượng mới trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và xu thế toàn cầu hóa gắn với những yêu cầu, cam kết về đảm bảo an toàn môi trường, quản lý, xử lý chất thải rắn, giảm thiểu phát thải khí nhà kính.