Nâng cao năng lực của phụ nữ yếu thế qua tiếp cận công nghệ
Theo báo cáo thống kê của các tổ chức xã hội, những năm gần đây, việc triển khai các dự án hỗ trợ phụ nữ yếu thế của các đơn vị địa phương, tổ chức xã hội đã được cụ thể hóa rõ nét hơn. Trong đó, chú trọng nâng cao năng lực và kiến thức cho phụ nữ yếu thế, thông qua việc đào tạo, bổ trợ kiến thức, phụ nữ yếu thế tiếp cận công nghệ để có cơ hội bắt nhịp với sự chuyển mình của xã hội.
Bên cạnh đó, các dự án hỗ trợ phụ nữ yếu thế cũng tập trung vào đào tạo cho họ kỹ thuật canh tác xanh, tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn về nông nghiệp hữu cơ, kỹ thuật canh tác bền vững, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, dự báo dịch hại, thiên tai.
Đặc biệt, để phát triển nông nghiệp xanh, bắt buộc người nông dân phải có kiến thức về công nghệ, về chuyển đổi số. Vì vậy, các dự án hướng tới việc nâng cao năng lực số cho bà con nông dân. Cung cấp các khóa học về kỹ năng số, giúp phụ nữ yếu thế tiếp cận thông tin thị trường, khoa học kỹ thuật và các nền tảng thương mại điện tử để tiêu thụ sản phẩm;
Hướng tới chuyển giao công nghệ, giới thiệu và hướng dẫn phụ nữ áp dụng các mô hình nông nghiệp công nghệ cao, ví dụ như mô hình giàn trồng rau thông minh trong nhà hoặc các ứng dụng công nghệ số trong sản xuất.
![]() |
| Nhiều dự án hướng tới hỗ trợ, đào tạo công nghệ, nâng cao nhận thức cho phụ nữ yếu thế, phụ nữ vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn về thực hành nông nghiệp xanh |
Quan trọng hơn cả, các dự án chú trọng việc hỗ trợ cho phụ nữ yếu thế về tài chính và nguồn lực, thông qua phương án tiếp cận vốn ưu đãi, xây dựng các chương trình, gói tín dụng với lãi suất ưu đãi dành riêng cho phụ nữ yếu thế khởi nghiệp hoặc mở rộng sản xuất nông nghiệp xanh.
Đồng thời, hỗ trợ các hộ nông dân thành lập các mô hình kinh tế tập thể, khuyến khích và hỗ trợ kỹ thuật để thành lập các hợp tác xã, tổ hợp tác do phụ nữ làm chủ, giúp tăng cường sức mạnh tập thể trong sản xuất và đàm phán thị trường.
Cùng với đó, dự án cung cấp hạ tầng và trang thiết bị, hỗ trợ các hộ nông dân về cơ sở vật chất, giống cây trồng, vật nuôi chất lượng cao và các thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp xanh. Xây dựng môi trường thuận lợi và kết nối thị trường, trong đó xây dựng chuỗi giá trị xanh thông qua hỗ trợ kết nối sản phẩm nông nghiệp xanh của phụ nữ với các thị trường lớn, đảm bảo đầu ra ổn định và giá trị kinh tế cao.
Đồng thời, thực hiện hệ thống chính sách đồng bộ, dài hạn từ các cấp chính quyền để thúc đẩy bình đẳng giới trong nông nghiệp xanh, tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy vai trò; Hợp tác với các tổ chức quốc tế (như CARE Quốc tế tại Việt Nam, Liên minh châu Âu) để triển khai các dự án hỗ trợ mô hình kinh doanh xanh do phụ nữ dẫn dắt.
Những giải pháp toàn diện hỗ trợ phụ nữ yếu thế trong kiến tạo nền nông nghiệp xanh
![]() |
| Bà Nguyễn Thị Thu Hà cho biết, dự án WE4AG của CARE Quốc tế tại Việt Nam đã triển khai thành công trong hỗ trợ phụ nữ yếu thế, phát triển nông nghiệp xanh ở Tuyên Quang, Cao Bằng và đang tiếp tục triển khai ở một số địa phương miền núi, vùng kinh tế khó khăn khác tại Việt Nam. Ảnh: Nguyễn Hạnh |
Tại tọa đàm “Agritech & Green Innovation: Thúc đẩy nông nghiệp công nghệ cao vì tăng trưởng xanh và phát triển bền vững” (nằm trong không khổ sự kiện Techfest 2025), các chuyên gia đầu ngành, các nhà nghiên cứu xã hội cũng đưa ra những thảo luận sâu sắc là làm thế nào để giúp phụ nữ yếu thế tiếp cận được công nghệ và thay đổi cuộc sống thông qua phát triển nông nghiệp công nghệ cao?
Theo bà Nguyễn Thị Thu Hà, cán bộ quản lý dự án WE4AG - CARE Quốc tế tại Việt Nam, các dự án của CARE ngoài mục đích nâng cao nhận thức cho người nông dân, hỗ trợ họ về chính sách, nguồn vốn, dự án còn đặc biệt hướng tới những người phụ nữ yếu thế ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Chia sẻ những bài học thực tiễn từ triển khai dự án xây dựng hệ sinh thái số theo chuỗi giá trị, thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững tại một số tỉnh vùng cao như Tuyên Quang, Cao Bằng ở Việt Nam, bà Hà chỉ ra: Có khoảng 80% các hộ nông nghiệp ở các vùng khó khăn hoạt động không liên kết, tức là “mạnh ai nấy làm”, làm manh mún và thiếu kiến thức.
Chỉ có khoảng 13% hộ nông nghiệp có liên kết với các sở, bộ, ngành, và phát triển nông sản trên sàn thương mại điện tử. Những con số này cho thấy, bà con nông dân đang sản xuất nông nghiệp manh mún, thiếu nhận thức về chuyển đổi xanh, chuyển đổi số.
![]() |
| Với sự hỗ trợ toàn diện, nông nghiệp công nghệ cao đã phát huy vai trò ở nhiều địa phương, tỉnh miền núi. Trong ảnh là thương hiệu xoài sạch Yên Châu, Sơn La đạt chuẩn VietGAP GlobalGAP, xuất khẩu sang các nước châu Âu. Ảnh minh họa |
Xóa bỏ những rào cản của phụ nữ yếu thế bằng chính sách ưu đãi, hướng nghiệp
Tại các tỉnh vùng cao, phụ nữ luôn là nhân lực lao động chính, nhưng cũng đồng thời là đối tượng yếu thế. Họ không có trình độ, sinh đẻ sớm nên sức khỏe yếu, gánh nặng kinh tế đổ lên vai họ, trong khi nội lực của họ thiếu và yếu.
Chính vì thế, việc tiếp cận phụ nữ yếu thế vùng cao để thay đổi nhận thức của họ, hướng họ tới canh tác ổn định, ứng dụng công nghệ là điều vô cùng khó khăn. Các chuyên gia, nhà hoạch định chính sách, nhà khoa học phải lên kế hoạch, đưa ra những phương pháp tiếp cận đặc thù, phù hợp với điều kiện địa lý, văn hóa và trình độ dân trí của phụ nữ yếu thế ở từng địa phương.
Trên cơ sở đó, giúp phụ nữ nâng cao năng lực bằng cách tập trung đào tạo các kỹ thuật canh tác cây trồng bản địa có giá trị kinh tế cao và phù hợp khí hậu, thổ nhưỡng. Ví dụ, ở tỉnh Cao Bằng, các chuyên gia hướng dẫn bà con trồng cây hồi, cây dong riềng hoặc chăn nuôi, nuôi ong mật theo hướng hữu cơ. Tại Tuyên Quang thì hỗ trợ bà con kỹ thuật canh tác cây cam sành, chè theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP. Hướng dẫn các hộ nông dân sử dụng phân bón hữu cơ và thuốc bảo vệ thực vật sinh học để giảm thiểu tác động môi trường.
Các buổi tập huấn được tổ chức ngay tại thôn, bản với ngôn ngữ dễ hiểu, hình ảnh trực quan thay vì tài liệu giấy phức tạp. Bên cạnh việc đào tạo, các dự án hướng tới việc hỗ trợ tài chính và huy động nguồn lực linh hoạt để giúp bà con có vốn để bắt tay vào trồng cấy, chăn nuôi ngay trên thôn, xã của họ.
Một rào cản không nhỏ hiện vẫn tồn tại, phụ nữ yếu thế ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa thường gặp khó khăn khi thực hiện thủ tục hành chính, khó tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng. Chính vì vậy, các dự án đã thông qua các tổ chức chính trị - xã hội như Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh/huyện/xã để thành lập các tổ tiết kiệm, vay vốn lưu động, sử dụng uy tín cộng đồng để bảo lãnh cho các thành viên. Nguồn vốn này có thể ưu tiên mua sắm thiết bị sản xuất nhỏ như máy sơ chế nông sản hoặc giống cây, con giống chất lượng cao.
Sau khi giúp bà con nông dân, đặc biệt là phụ nữ yếu thế thay đổi nhận thức, ổn định canh tác theo hướng hữu cơ, các doanh nghiệp, đơn vị triền khai chính sách phải tính đến vấn đề bao tiêu sản phẩm, lo đầu ra cho bà con.
Song song với đó, các tổ chức xã hội khi triển khai dự án cũng hướng tới hỗ trợ người nông dân xây dựng thương hiệu tập thể cho các sản phẩm OCOP địa phương, ví dụ như miến dong Phia Đén, gạo nếp nương, sản phẩm từ cây hồi tại tỉnh Cao Bằng. Đồng thời, kết nối sản phẩm với các doanh nghiệp lữ hành du lịch, bán hàng trực tiếp cho khách du lịch tại các điểm tham quan như thác Bản Giốc, hang Pác Bó để tăng giá trị.
Hoặc thông qua việc xây dựng các điểm thu mua, chế biến nông sản tại Tuyên Quang, cụ thể như xây dựng nhà máy chế biến chè, đảm bảo phụ nữ yếu thế trong vùng có thể bán sản phẩm trực tiếp mà không phải qua nhiều khâu trung gian. Hỗ trợ truy xuất nguồn gốc sản phẩm (QR code) để nâng cao niềm tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm sạch, xanh.
Một số chuyên gia thống nhất ý kiến, cách tốt nhất là phải tăng cường vai trò của các Câu lạc bộ nông nghiệp xanh do phụ nữ làm chủ. Đây là nơi chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau và là cầu nối giữa chính quyền địa phương với phụ nữ nông thôn, đảm bảo tiếng nói của phụ nữ yếu thế được lắng nghe trong các quyết sách phát triển nông nghiệp địa phương. Bà Nguyễn Thị Thu - CEO Hệ sinh thái MEVI, Trưởng Cộng đồng Công nghệ Nông nghiệp thông minh Techfest Quốc gia cho rằng, để triển khai được các dự án, việc đưa ra giải pháp không khó, việc khó là làm sao ứng dụng được các giải pháp vào thực tế đời sống của người nông dân ở từng địa phương. Bà Thu đưa ra sáng kiến hình thành trung tâm đổi mới sáng tạo nông nghiệp thông minh, khu trình diễn và thử nghiệm công nghệ trong nông nghiệp. Bà Thu khẳng định, những động thái này là cần thiết, bởi nếu thiếu công nghệ, người nông dân sẽ mắc kẹt trong phát triển nông nghiệp truyền thống, không lĩnh hội được những sáng tạo không biên giới từ công nghệ để thúc đẩy nền công nghiệp xanh và sạch. |