Chè tươi, chè Tàu, chè hạt Bàn về chè và trà |
![]() |
Trà đá |
Trời Hà Nội sau đêm Noel bỗng trở chứng, tháng Mười hai dương lịch rồi mà vẫn nóng như mùa hè. Dẫn cháu đi chơi phố, nó cứ đòi ông cho uống trà đá. Tôi không dám cho nó uống. Khi đi chơi, mẹ con bé dặn: “Ông đừng cho cháu uống trà đá nhé. Uống là viêm họng liền ông ạ!” Tôi hỏi cháu: “Sao con lại thích uống trà đá?” Con bé thản nhiên trả lời: “Cháu tập thể dục ở trường xong là cả lũ thường kéo nhau ra quán uống trà đá ông ạ!” Nó lại hỏi: “Sao ông không uống trà đá mà chỉ uống trà đặc nóng? Bọn cháu không uống được trà đặc đâu ông ạ!”
Lũ trẻ giờ nó thế, đua nhau uống đủ các thứ, nào là trà đá, nào là các loại nước đóng chai mà có thời đắt hơn cả xăng ô tô. Thì ra chỉ có mấy chục năm thôi mà lối uống trà của người Hà Nội đã đổi thay nhanh chóng vậy ư?
Thuở còn đi học trạc tuổi con bé cháu tôi bây giờ, tôi sống với bố mẹ và ông bà nội. Ông nội tôi cũng đi làm nhưng không thấy ông trà Tàu thuốc lá bao giờ, nhưng ông hút thuốc lào. Bố tôi là công chức nhưng cũng chẳng thấy uống trà Tàu hay phì phèo thuốc lá. Thời ấy, bà tôi thường nấu nồi nước lá vối để trong bếp hay pha ấm nước nụ vối ủ trong giỏ. Lũ trẻ chúng tôi thì chỉ uống nước lọc. Thỉnh thoảng theo bà, theo mẹ ra chợ, khát nước, bà mua bát chè tươi san ra hai bát, hai bà cháu uống cho đỡ khát. Ngoài chợ, bà cụ bán chè tươi kê cái chõng tre, úp dăm cái bát. Có khách uống thì lấy gáo vục vào lòng cái hũ hãm chè bên ngoài bọc bao tải, chắt nước nóng hổi đong ra bát mời khách. Cái thuật hãm chè tươi cũng công phu lắm. Người ta phải vò chè, chần nước thật sôi xong mới hãm, mới ủ. Cũng có người thích uống nước mát thì đã có sẵn những chiếc cốc thủy tinh trong đựng chè tươi nguội, đậy nắp bằng những đĩa gỗ mỏng hình tròn cho bụi khỏi bay vào nước. Ai muốn uống chè xanh với đường kính thì gọi thêm thìa đường khuấy lên uống cho giải nhiệt. Thời ấy Hà Nội tuyệt không có trà đá. Nói đến trà đá thì phải hiểu được lịch sử của nước đá Hà Nội nó ra làm sao. Nước đá có mặt ở Hà Nội từ bao giờ? Ai là người đem nước đá vào Việt Nam?
Thực ra, cho đến tận cuối thế kỷ 19, nước đá mới xuất hiện ở Việt Nam. Trước thời điểm này, hầu hết người Việt không biết nước đá là gì. Nước ta ở vào xứ nhiệt đới, quanh năm nóng ẩm. Ngoài Bắc thì có mùa đông và người dân ở đồng bằng Bắc Bộ tuy chịu cái rét căm căm trong những ngày đông mưa phùn gió bấc nhưng tuyệt không bao giờ được thấy băng tuyết cả. Chỉ có số ít đồng bào sống trên núi cao như Sa Pa (Lào Cai) hay Mẫu Sơn (Lạng Sơn) họa hoằn lắm mới thấy chút băng giá vào sớm đông hay cảnh tuyết rơi trăm năm mới có một lần.
![]() |
Nhà máy nước đá đầu tiên ở Hà Nội nằm trên đường Trần Quang Khải. Năm ngoái, ngồi uống bia với nhà sử học Dương Trung Quốc và mấy người bạn nữa bên ngành Kiến trúc, Xây dựng. Từ trên tầng hai của quán bia trên phố Trần Quang Khải, nhìn ra cửa kính, tôi giật mình nhận ra cái tháp lọc nước của nhà máy nước đá cổ xưa vẫn còn đang yên vị trong khuôn viên của mảnh đất bên cạnh. Cái tháp làm mát nước và bay hơi các tạp chất là một khối bê tông vuông đặt trên bốn trụ, có nhiều khe hở như những tấm cửa sổ lớn mở ra bốn bề không khí thoáng đãng bên sông Hồng đã là một trong những biểu trưng của nền công nghiệp Pháp ở Việt Nam cuối thế kỷ 19. Hồi ấy, hình tháp nước đó được người ta in thành bưu ảnh đem bán khắp nơi. Thời tôi còn nhỏ, nước đá Hà Nội chủ yếu sản xuất ở nhà máy này. Về sau, tôi còn thấy một vài nơi khác cũng sản xuất nước đá như một xưởng tư nhân ở cửa ga Hàng Cỏ và xưởng khác ở trong ngõ Phố Huế.
Trong những năm 50, 60 của thế kỷ trước, ngày tôi còn bé, nước đá là mặt hàng xa xỉ đối với nhiều người dân Hà Nội. Muốn mua được nước đá, người ta phải ra các đại lý. Họ chở về đấy những cây đá lớn phủ bao tải để giữ lạnh. Mua từng cục đá về phải ủ trấu khô, đắp bao tải để giữ đá lâu tan. Những gia đình khá giả thì giữ đá trong những phích đá thủy tinh. Chiếc phích đá này làm bằng thủy tinh hai lớp có tráng gương, miệng rộng, vỏ ngoài bằng sắt, có quai xách và nút phích là miếng li-e rộng hơn gang tay. Ở nhà tôi, mỗi khi có khách quý đến chơi, bố tôi mua cục nước đá, mời khách uống nước chanh tươi pha với đường, đá, đựng trong chiếc cốc pha lê trong vắt có viền vàng mà năm thì mười họa mới dùng đến.
![]() |
Thời ấy, chỉ các gia đình giàu có mới sắm được tủ lạnh. Tuy nhiên, những nhà giàu này cũng không có thói quen uống trà đá mà chỉ uống nước mát thôi. Mãi tới sau giải phóng miền Nam 1975 và sau những đợt gửi công nhân đi hợp tác xuất khẩu sang Liên Xô (cũ) và Đông Âu (cũ), cái tủ lạnh mới được đưa từ trong Nam ra hay đóng thùng gửi từ nước ngoài về. Từ đó, nước đá và thói quen uống nước lạnh mới trở nên phổ biến trong các gia đình thành thị của Hà Nội.
Dân Hà Nội đã biết dùng nước đá, nước lạnh từ cuối thế kỷ 19, nhưng thói quen uống trà đá thì có từ bao giờ?
Thuở xưa, người Hà Nội ít uống trà Tàu mà chỉ uống nụ vối, lá vối, chè hạt, chè tươi và nước lọc. Trà Tàu (trà mạn, trà sen…) chỉ được dùng trong một số gia đình và cũng không phải là thứ uống thường xuyên. Sau này, cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc mở rộng sản xuất khai hoang, trồng chè ở Lương Sơn, Hòa Bình và nhiều vùng trung du khác như Thái Nguyên, Phú Thọ nên sản lượng trà cũng theo đó mà tăng lên.
Các anh bộ đội tập kết xa nhà thường tụ tập ngồi uống trà nóng hãm thật đặc trong nỗi nhớ đau đáu quê hương miền Nam đang trong lúc “nước sôi lửa bỏng” và lối uống này dần dần lan rộng ra khắp nơi. Đặc biệt khi có chính sách tem phiếu, nhiều người không biết uống trà nhưng được cấp tem phiếu có bán trà, không mua thì cũng tiếc và rồi dần dần uống trà đã thành thói quen. Trong thời chiến tranh ác liệt cũng như thời bao cấp thiếu thốn trăm bề thì chén trà là người bạn tâm tình của bao con người đang gồng mình vượt khó.
Phải sau giải phóng miền Nam, lối uống trà đá mới từ người Bắc vào Nam và người Nam ra Bắc xâm nhập vào đời sống của cư dân Hà Nội. Hồi tôi mới vào Sài Gòn thì ăn cơm, ăn phở xong cứ việc gọi trà đá miễn phí. Nay có chỗ uống ly trà đá thì phải tính thêm tiền. Anh bạn tôi trong Sài Gòn, dạo đó ra Hà Nội, ăn phở nóng xong gọi ly trà đá mà chỉ toàn chè chén nóng uống bỏng lưỡi. Nay thì gọi trà đá ở đâu cũng có.
Các bà già bán nước đầu đường góc phố vẫn yên vị với chiếc ấm giỏ, mấy cái ghế thấp lè tè, cái điếu cầy dựng một góc như một chứng nhân, một “sưu tập hóa thạch” của cuộc sống Thủ đô thời bao cấp, chỉ đổi khác ở chỗ vừa có trà nóng hổi lại bán cả trà đá và đủ loại thuốc lá ngoại. Cái chén tống sứ cũng biến đâu cả rồi mà lại thay bằng cốc thủy tinh. Cốc thủy tinh dùng uống trà đá thì hợp, chứ rót trà nóng vào nó cứ “ngang ngang”. Góp ý mãi mà các bà chẳng sửa!
Hà Nội ngày 28/12/2009